Một số vấn đề lý luận về đào tạo NVXX cho công chức là nguồn thẩm phán trong Hệ thống TAND đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới
TS
Tóm tắt:
Trong phạm vi bài viết, chúng tôi tập
trung nghiên cứu làm rõ các quan điểm của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp,
xây dựng Nhà nước pháp quyền trong tình hình mới, về khoa học công nghệ, về cơ
cấu tổ chức bộ máy của hệ thống TAND, yêu cầu về chất lượng đội ngũ Thẩm phán
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới. Đồng thời làm rõ các vấn
đề lý luận (Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa) đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức
là nguồn Thẩm phán.
Từ khoá:
Đào tạo nghiệp vụ xét xử, nguồn Thẩm
phán, xây dựng nhà nước pháp quyền XHXN Việt Nam
1. Khái niệm, đặc điểm đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức trong hệ thống Toà
án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong
giai đoạn mới
Đào tạo nghiệp vụ xét xử là một trong những yếu tố then chốt, quyết định giúp
nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân,
đặc biệt là hoạt động xét xử các vụ án. Đào tạo nghiệp vụ xét xử nhằm trang bị
cho người học nắm được những kiến thức pháp lý, hình thành kỹ năng xử lý vụ án
việc thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân vàcó
năng lực tư duy pháp lý toàn diện, bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề
nghiệp.
Theo Từ điển tiếng Việt thì đào tạo là “làm cho trở thành người có năng lực theo
những tiêu chuẩn nhất định”
. Đào tạo được xem là quá trình tác
động đến con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ
năng... một cách hệ thống, nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống
và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định trong mỗi giai đoạn lịch sử
xã hội.
Theo
Điều 3 Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014 quy định như sau:
1. Giáo dục nghề nghiệp là một bậc học của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đào
tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình
đào tạo nghề nghiệp khác cho người lao động, đáp ứng nhu cầu nhân lực trực tiếp
trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, được thực hiện theo hai hình thức là đào
tạo chính quy và đào tạo thường xuyên.
2.
Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và
thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự
tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp.
3. Mô-đun là đơn vị học tập được tích hợp giữa kiến thức chuyên môn, kỹ năng
thực hành và thái độ nghề nghiệp một cách hoàn chỉnh nhằm giúp cho người học có
năng lực thực hiện trọn vẹn một hoặc một số công việc của một nghề.”
Theo
quy định tại Khoản 1 Điều 3 Quy chế đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức Bộ
Tư pháp ban hành kèm theo Quyết định 273/QĐ-BTP năm 2018 thì: “Đào tạo” là quá
trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định
của từng cấp học, bậc học.”
Hay nói theo cách khác, đào tạo nghề là “quá trình tác động có mục đích,
có tổ chức đến người học nghề để hình thành và phát triển một cách có hệ thống
những kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu
của xã hội, trong đó có nhu cầu quốc gia, nhu cầu doanh nghiệp và nhu cầu bản
thân người học nghề”.
Các quan điểm trên tuy xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau về đào tạo nghề
nhưng đều thống nhất xác định đào tạo nghề là quá trình dạy và học các kỹ năng
thực hành, nghề nghiệp hay kiến thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể để người
học lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng nghề nghiệp một cách có hệ
thống để chuẩn bị cho người học sẵn sàng đảm nhận được một nghề nhất định. Thực
chất, đào tạo nghề là một hình thái cụ thể và bộ phận của giáo dục nghề nghiệp.
Đào tạo là nội hàm của giáo dục, xét trong nội hàm đào tạo nghề thì đào tạo ở
đây là giai đoạn sau, khi cá nhân người học đã đạt được một trình độ nhất định,
ở một độ tuổi nhất định. Về hình thức, có nhiều loại hình đào tạo như: Đào tạo
cơ bản, đào tạo chuyên sâu, đào tạo chuyên môn, đào tạo nghề, đào tạo lại (bồi
dưỡng) tạo tạo từ xa, tự đào tạo.
Như vậy, đào tạo là hoạt động thường
xuyên có mục đích, có tổ chức, nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri
thức, kỹ xảo, kỹ năng, thái độ… để hoàn thành nhân cách cho một cá nhân, tạo
điều kiện cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả.
Hay nói một cách chung nhất, đào tạo được xem như là một quá trình làm cho người
ta trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn để thực hiện những lao động
nhất định.
2. Mục tiêu, nội dung và ý nghĩa đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn
Thẩm phán trong hệ thống Toà án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn mới
2.1. Về mục tiêu, nội dung đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm
phán
Thứ nhất, mục tiêu đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán
Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử tại Học viện Toà án có mục tiêu nhằm đào
tạo là đào tạo nguồn cán bộ bổ nhiệm Thẩm phán. Chương trình đào tạo hướng tơi
việc trang bị cho học viên các phẩm chất, kỹ năng và năng lực cụ thể như sau:
(i)
Nâng cao nhận thức nghề nghiệp, rèn luyện bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề
nghiệp của một thẩm phán;
(ii)
Trang bị kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của một người thẩm phán: Khả năng tư duy pháp
lý, áp dụng pháp luật, khả năng diễn đạt, khả năng viết, khả năng điều hành
phiên toà.
Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán tại Học
viện Tòa án – Theo hướng đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo nguồn nhân lực
cho Toà án
nhằm xây dựng đội ngũ Thẩm phán chuyên nghiệp, hiện đại đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp trong tình hình mới. Trong bối cảnh cải cách tư pháp và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ tư pháp, đặc biệt là Thẩm phán là người nhân danh Nhà nước thực hiện quyền
xét xử, là yêu cầu vừa cấp thiết, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Với vai trò
là cơ sở đào tạo duy nhất nguồn Thẩm phán trong hệ thống Toà án nhân dân theo
quy định của pháp luật. Học viện Tòa án đang từng bước nâng cao chất lượng
chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán, nhằm đáp
ứng đòi hỏi ngày càng cao về năng lực xét xử, đạo đức tư pháp và tư duy nghề
nghiệp trong hệ thống Tòa án nhân dân.
Thứ hai, nội dung đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán
Trang bị kiến thức chuyên sâu về pháp luật là nền tảng cho năng lực giải quyết
các vụ việc thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân, hình thành bản lĩnh chính trị,
đạo đức Thẩm phán.
Một là,
Chương trình đào tạo tại Học viện Tòa án được thiết kế theo hướng chuyên sâu, hệ
thống và cập nhật thực tiễn, trong đó đặc biệt chú trọng các lĩnh vực pháp luật
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án như: dân sự, hình sự, hành chính, kinh
doanh thương mại, hôn nhân gia đình, lao động… Kiến thức chuyên môn không chỉ
dừng lại ở việc truyền đạt quy phạm pháp luật, mà còn đi sâu vào phương pháp áp
dụng, phân tích lập luận pháp lý, bình luận các bản án, quyết định có giá trị
thực tiễn cao và diễn giải tư duy của Tòa án các cấp thông qua hệ thống án lệ.
Việc này giúp học viên là các công chức đang trong diện nguồn Thẩm phán hình
thành năng lực pháp lý vững chắc, từ đó nâng cao khả năng giải quyết các loại vụ
việc phức tạp, nhạy cảm, đa dạng trong xã hội hiện đại.
Đặc biệt, với xu hướng mở rộng thẩm quyền của Tòa án nhân dân sau khi tổ chức
lại theo mô hình Tòa án khu vực từ năm 2025,
yêu cầu Thẩm phán không chỉ giỏi một lĩnh vực, mà phải có tư duy pháp lý liên
ngành – liên lĩnh vực, vừa hiểu luật thực định, vừa vận dụng được các nguyên tắc
tố tụng, lập luận thuyết phục và bảo vệ được tính hợp pháp, công lý trong từng
phán quyết.
Hai là,
Phát triển kỹ năng thực hành nghề nghiệp cốt lõi của đào tạo nghiệp vụ xét xử.
Bên cạnh kiến thức, chương trình đào tạo tại Học viện Tòa án tập trung phát
triển kỹ năng thực hành nghề nghiệp như thụ lý vụ án, soạn thảo quyết định đưa
vụ án ra xét xử, tổ chức và điều hành phiên tòa sơ thẩm, kỹ năng nghị án và ban
hành bản án, quyết định đúng pháp luật. Đối với công chức nguồn Thẩm phán, các
kỹ năng này không thể chỉ học qua lý thuyết, mà phải được thực hành thông qua
tình huống, mô phỏng phiên tòa, tranh luận giả định, giải đề pháp lý và đánh giá
chứng cứ đa chiều.
Đặc biệt, việc rèn luyện kỹ năng phân tích, đánh giá chứng cứ, xử lý tình huống
pháp lý bất ngờ là yêu cầu cốt lõi trong đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức
là nguồn Thẩm phán, bởi trong thực tiễn, mỗi vụ án dân sự, hình sự, hay hành
chính đều có đặc thù riêng, đòi hỏi người xét xử phải đưa ra phán đoán độc lập,
sắc bén và có căn cứ vững chắc. Khả năng xác định trọng tâm tranh chấp (xác định
quan hệ tranh chấp, cơ sở pháp lý), tìm ra điểm mấu chốt, kiểm soát diễn biến
phiên tòa là yếu tố quyết định đến chất lượng bản án và sự thuyết phục của thấu
tình, đạt lý trong mỗi bản án, quyết định.
Ba là,
nội dung chương trình bao gồm các chuyên đề về thực hành các phiên đối thoại,
hoà giải, kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ và đặc biệt là rèn luyện kỹ
năng điều khiển phiên tòa, quản lý tranh tụng – bảo đảm quyền tiếp cận công lý
cho đương sự. Một Thẩm phán giỏi không chỉ là người nắm vững pháp luật, mà còn
là “nhạc trưởng” điều hành phiên tòa hiệu quả, công tâm. Chương trình đào tạo
nghiệp vụ hiện nay tại Học viện chú trọng kỹ năng điều khiển phiên tòa, điều
phối tranh tụng, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, tranh tụng trong tố tụng, theo
đúng tinh thần của Hiến pháp 2013 và các luật tố tụng hiện hành.
Người Thẩm phán phải có khả năng xử lý linh hoạt các tình huống phát sinh, như
sự thiếu hợp tác của đương sự, các hành vi gây rối trật tự phiên tòa, yêu cầu
hoãn phiên tòa không chính đáng… Bên cạnh đó, việc đưa ra phán quyết không chỉ
là thao tác pháp lý thuần túy, mà còn là hành vi mang tính công lý – phải vừa
thuyết phục về lý lẽ, vừa thấm đượm giá trị nhân văn, nhất là trong các vụ án về
hôn nhân, thừa kế, tranh chấp quyền sử dụng đất ở nông thôn.
Bốn là,
trong chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức trong hệ thống TAND
còn được trang bị phần “Những vấn đề chung về nghề Thẩm phán”, nhằm hướng đến
mục tiêu nâng cao đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm – bảo đảm sự liêm
chính tư pháp, đồng thời vấn đề đạo đức, tinh thần, trách nhiệm nghề nghiệp cũng
được lồng ghép xuyên suốt trong toàn bộ chương trình đào tạo. Một nội dung không
thể thiếu trong đào tạo nguồn Thẩm phán là giáo dục đạo đức nghề nghiệp, thái độ
xử sự chuẩn mực và tinh thần trách nhiệm với nhân dân. Các buổi thảo luận, tọa
đàm chuyên đề về đạo đức xét xử, tình huống vi phạm đạo đức tư pháp, hướng dẫn
áp dụng Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán giúp học viên ý thức rõ ranh
giới giữa quyền lực xét xử và trách nhiệm pháp lý, đạo lý gắn liền với mỗi bản
án.
Việc nâng cao thái độ chuyên nghiệp, không thiên lệch, không bị chi phối bởi áp
lực hành chính, không làm tổn hại niềm tin vào công lý, chính là giá trị cốt lõi
để xây dựng đội ngũ Thẩm phán liêm chính, bản lĩnh và nhân văn.
Năm là,
chương trình đào tạo còn có học phần về ứng dụng công nghệ thông tin nhằm trang
bị kỹ năng làm việc hiện đại trong Tòa án số. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế.
Trong giai đoạn tới trước bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ của hệ
thống Tòa án nhân dân, chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử cũng tích hợp nội
dung ứng dụng CNTT như sử dụng phần mềm quản lý án, tra cứu cơ sở dữ liệu bản
án, quyết định, kết nối hồ sơ điện tử, xử lý các vụ việc có yếu tố số hóa (ví
dụ: chứng cứ điện tử, hợp đồng thông qua mạng…). Kỹ năng sử dụng công nghệ là
yêu cầu tất yếu để công chức nguồn Thẩm phán có thể thích nghi với Tòa án khu
vực trong thời đại số hóa tư pháp.
Tóm lại,
chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử tại Học viện Tòa án không chỉ đơn thuần là
đào tạo kỹ thuật tố tụng, mà còn là quá trình hình thành tư duy pháp lý, đạo đức
nghề nghiệp và năng lực thích ứng với yêu cầu cải cách tư pháp hiện đại. Việc
trang bị toàn diện các kỹ năng chuyên môn, kỹ thuật, công nghệ và đạo đức giúp
xây dựng đội ngũ Thẩm phán vững về chuyên môn, sáng về đạo lý, xứng đáng là
“trái tim” của nền công lý Việt Nam trong giai đoạn mới.
2.2. Ý nghĩa đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán
Trong
nền tư pháp hiện đại, chất lượng xét xử không chỉ phụ thuộc vào cơ chế tổ chức
bộ máy Tòa án mà quan trọng hơn là năng lực, bản lĩnh, đạo đức và kỹ năng nghề
nghiệp của đội ngũ Thẩm phán là những người trực tiếp thực thi quyền tư pháp,
nhân danh Nhà nước để ra phán quyết về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong xã
hội. Vì vậy, việc đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán
không chỉ là một bước đi kỹ thuật trong quy trình bổ nhiệm chức danh tư pháp, mà
còn là chiến lược phát triển nhân lực mang tính quyết định đối với chất lượng tư
pháp, sự công bằng của pháp luật và niềm tin của nhân dân vào công lý. Dưới góc
nhìn thực tiễn và học thuật, có thể thấy rõ ý nghĩa sâu sắc của hoạt động này
trên các phương diện sau:
Một
là,
đào tạo nghiệp vụ xét xử là điều kiện tiên quyết để nâng cao chuyên môn, kỹ năng
thực tiễn và hiệu quả xét xử
Khác
với công chức hành chính thông thường, Thẩm phán là người nắm giữ quyền năng đặc
biệt trong Nhà nước pháp quyền – quyền ra bản án, quyết định có giá trị bắt buộc
thi hành, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền tài sản, quyền tự do,
danh dự và nhân phẩm của các cá nhân, tổ chức. Do đó, không thể giao phó chức
năng này cho những người chỉ có kiến thức lý thuyết luật học mà chưa qua rèn
luyện kỹ năng thực hành nghề nghiệp.
Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử giúp công chức là nguồn Thẩm phán tiếp cận
toàn diện quy trình tố tụng từ thụ lý, chuẩn bị xét xử, điều hành phiên tòa,
phân tích đánh giá chứng cứ, nghị án và ban hành bản án, quyết định. Những kỹ
năng này không thể tự nhiên hình thành, mà phải được rèn luyện thông qua các mô
hình mô phỏng, phân tích tình huống thực tiễn, hướng dẫn cụ thể từ các giảng
viên, Thẩm phán giàu kinh nghiệm. Việc đào tạo bài bản góp phần giảm thiểu sai
sót trong tố tụng, xử lý chính xác các vụ việc phức tạp và hạn chế tình trạng
hủy, sửa bản án.
Bên
cạnh đó, năng lực hòa giải là một yêu cầu ngày càng quan trọng trong giải quyết
các tranh chấp dân sự, hôn nhân, đất đai cũng được lồng ghép trong chương trình
đào tạo. Khi Thẩm phán có đủ kỹ năng thuyết phục, phân tích lợi ích và định
hướng giải pháp hợp tình, hợp lý, họ sẽ góp phần ổn định xã hội, tiết kiệm thời
gian, chi phí tố tụng và củng cố niềm tin vào vai trò của Tòa án như một thiết
chế vì nhân dân.
Hai
là,
đào tạo nghiệp vụ là quá trình giáo dục đạo đức nghề nghiệp, nâng cao tư duy
phản biện và năng lực cập nhật pháp luật.
Ngoài
kiến thức chuyên môn, một Thẩm phán cần có tư duy phản biện sắc sảo, khả năng
lập luận logic và khả năng đứng vững trước áp lực dư luận, sự tác động không
chính đáng từ các bên liên quan hoặc từ chính hệ thống nội bộ. Đào tạo nghiệp vụ
xét xử không chỉ cung cấp kỹ năng chuyên môn mà còn là quá trình rèn luyện tư
duy nghề nghiệp và đạo đức công vụ, tạo nên bản lĩnh xét xử độc lập, khách quan
là yêu cầu cốt lõi trong hoạt động tư pháp.
Đặc
biệt, trong bối cảnh pháp luật Việt Nam đang không ngừng sửa đổi, bổ sung và hội
nhập với pháp luật quốc tế, chương trình đào tạo là cầu nối để cập nhật quy định
pháp luật mới, các hướng dẫn xét xử, án lệ, cũng như cải tiến kỹ thuật tổ chức
phiên tòa theo mô hình hiện đại như Tòa án điện tử, phiên tòa trực tuyến, quản
lý hồ sơ điện tử, áp dụng trí tuệ nhân tạo trong phân loại án…
Việc
đào tạo này không chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt khi bổ nhiệm, mà còn hình thành
thói quen học tập suốt đời và trách nhiệm tự nâng cao trình độ của Thẩm phán là
điều kiện để hệ Toà án nhân dân luôn đổi mới và thích ứng.
Ba là,
củng cố niềm tin xã hội vào hệ thống Tòa án nahan dân thông qua đội ngũ Thẩm
phán có bản lĩnh, công minh và chuyên nghiệp.
Một
bản án, quyết định đúng pháp luật nhưng thiếu tính thuyết phục, thiếu lập luận
chặt chẽ hoặc vi phạm tố tụng đều có thể làm tổn hại đến hình ảnh của Tòa án và
suy giảm niềm tin của công chúng. Trong khi đó, một Thẩm phán có trình độ, có
khả năng xử lý hồ sơ chặt chẽ, điều hành phiên tòa bản lĩnh, ra quyết định hợp
tình, hợp lý và kịp thời sẽ là biểu tượng sống động cho công lý, nâng cao niềm
tin của công chúng vào hệ thống TAND.
Việc
đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán chính là nền tảng để
xây dựng đội ngũ Thẩm phán “vừa hồng, vừa chuyên”, không chỉ đủ điều kiện pháp
lý, mà còn đủ năng lực bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan, từ đó góp phần
thực hiện sứ mệnh tối thượng của Tòa án, bảo vệ công lý, công bằng và lẽ phải.
Đặc
biệt, trong giai đoạn cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 27-NQ/TW và tổ chức
lại hệ thống Tòa án theo mô hình khu vực từ 01/7 2025, đòi hỏi đội ngũ Thẩm phán
không chỉ làm việc theo địa giới hành chính, mà phải có năng lực xử lý vụ việc
trên địa bàn rộng hơn, với đa dạng vấn đề pháp lý và yêu cầu xét xử cao hơn. Vì
vậy, đào tạo nghiệp vụ không chỉ là sự chuẩn bị cho cá nhân, mà còn là sự chuẩn
bị chiến lược cho cả hệ thống Tòa án hiện đại, hiệu lực và gần dân.
Tóm
lại,
đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán là khâu then chốt
quyết định chất lượng đội ngũ Thẩm phán trong tương lai. Đây là quá trình trang
bị kiến thức chuyên sâu, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, giáo dục đạo đức công
vụ, đồng thời góp phần chuẩn hóa và nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, hướng
tới một nền tư pháp chuyên nghiệp, công minh và thân thiện với nhân dân. Trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đầu tư cho đào tạo Thẩm
phán chính là đầu tư cho chất lượng công lý và sự trường tồn của niềm tin xã hội
vào Tòa án.
3. Kết Luận và kiến nghị
Việc đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán là một trong
những khâu then chốt trong lộ trình xây dựng, chuẩn hóa và nâng cao chất lượng
đội ngũ Thẩm phán trong hệ thống Tòa án nhân dân. Đây không chỉ là yêu cầu về
mặt thủ tục hành chính đối với việc bổ nhiệm Thẩm phán theo Luật Tổ chức TAND mà
còn là quá trình giáo dục, huấn luyện toàn diện cả về chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, đạo đức tư pháp, bản lĩnh chính trị và tư duy xét xử độc lập.
Thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân các cấp trong thời gian qua cho thấy, nhiều
sai sót, vi phạm tố tụng hay các bản án bị hủy, sửa có nguyên nhân sâu xa từ
việc người tiến hành tố tụng chưa được đào tạo bài bản, thiếu kỹ năng phân tích
chứng cứ, không vững trong điều hành phiên tòa hoặc lập luận không chặt chẽ,
thiếu thuyết phục, thiếu bản lĩnh chính trị, thiếu tu dưỡng đạo đức.... Trong
khi đó, xã hội đang ngày càng đặt kỳ vọng cao hơn vào tính chuyên nghiệp, công
minh và hiệu lực của hoạt động tư pháp.
Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử tại Học viện Tòa án thời gian qua đã có
nhiều đổi mới đáng ghi nhận, từ việc thiết kế nội dung sát thực tiễn, tích hợp
mô phỏng phiên tòa, thực hành phân tích tình huống, cập nhật pháp luật mới và
ứng dụng công nghệ số. Qua đó, góp phần định hình năng lực cốt lõi và đạo đức
nghề nghiệp của đội ngũ Thẩm phán tương lai. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đạt được, việc đào tạo nghiệp vụ vẫn còn tồn tại một số bất cập như: chưa bảo
đảm thời lượng thực hành tương xứng, chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ chất lượng
đầu ra, hoặc thiếu cơ chế phản hồi từ thực tiễn xét xử tại địa phương.
Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, khi hệ thống Tòa án chuyển sang mô hình tổ
chức theo khu vực và yêu cầu cải cách tư pháp ngày càng sâu rộng, việc tiếp tục
nâng cao chất lượng đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán
trở thành nhiệm vụ cấp thiết và chiến lược. Trên cơ sở mục tiêu, nội dung và ý
nghĩa của chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm
phán, có thể kiến nghị một số định hướng hoàn thiện như sau:
(i) Thể chế hóa vị trí, vai trò của chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử trong
hệ thống bổ nhiệm Thẩm phán
Cần quy định rõ trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) và các văn bản
hướng dẫn rằng: “Chứng chỉ đào tạo nghiệp vụ xét xử tại Học viện Tòa án là điều
kiện bắt buộc, có giá trị tương đương với kiểm định năng lực nghề nghiệp để được
bổ nhiệm chức danh Thẩm phán.” Việc này nhằm thống nhất nhận thức về tính chuyên
nghiệp và sự cần thiết của đào tạo nghiệp vụ, đồng thời tránh tình trạng “hình
thức hóa” khâu đào tạo như một bước trung gian mang tính thủ tục.
(ii) Rà soát và nâng cấp nội dung,
phương pháp đào tạo theo hướng thực tiễn – chuyên sâu – hiện đại
-
Về nội dung: Bên cạnh việc học các quy định pháp luật hiện hành, cần tăng thời
lượng cho kỹ năng thực hành nghề nghiệp (thẩm định chứng cứ, điều hành tranh
tụng, phân tích bản án mẫu, viết dự thảo bản án, nghị án theo mô hình tổ), đặc
biệt trong các lĩnh vực phức tạp như án hành chính, tranh chấp đất đai, thừa kế…
-
Tăng
cường các chuyên
đề chuyên sâu về lý luận về Nhà nước và pháp luật trong chương
trình đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán là yêu cầu cấp
thiết. Những chuyên đề này cần tập trung vào lý luận pháp luật nâng cao, kỹ năng
phân tích và giải thích pháp luật, tư duy lập luận tư pháp, nghiên cứu án lệ và
khả năng ban hành bản án mang giá trị định hướng pháp lý. Chỉ khi được trang bị
nền tảng lý luận pháp lý vững chắc và tư duy pháp quyền hiện đại, Thẩm phán mới
có đủ năng lực để giải quyết các vụ án phức tạp, góp phần phát triển hệ thống
pháp luật thông qua bản án, quyết định có giá trị dẫn chiếu và trở thành án lệ.
Đây cũng là điều kiện cần thiết để thực hiện tốt chức năng định hướng pháp lý
của Tòa án trong mô hình tư pháp hiện đại, bảo đảm xét xử không chỉ đúng luật mà
còn có tính định hình pháp luật trong thực tiễn.
-
Về phương pháp: Đẩy mạnh áp dụng mô hình mô phỏng phiên tòa, tình huống giả
định, phiên tòa học tập có sự tham gia của giảng viên là các Thẩm phán cấp cao
hoặc đã nghỉ hưu có kinh nghiệm xét xử.
-
Về công nghệ: Trang bị hệ thống học liệu điện tử, nền tảng đào tạo trực tuyến,
phần mềm hỗ trợ tra cứu pháp lý, hệ thống ngân hàng tình huống và án lệ để học
viên chủ động tiếp cận tri thức xét xử.
(iii)
Tăng cường gắn kết giữa Học viện Tòa án với hệ thống Tòa án địa phương
Học viện cần ký kết chương trình phối hợp với các Tòa án nhân dân khu vực, TAND
cấp tỉnh để cử học viên đến thực tập thực tế, tham dự phiên tòa, viết nhận xét
vụ án và rút kinh nghiệm cùng hội đồng xét xử. Đồng thời, lãnh đạo các Tòa án
cần có trách nhiệm đánh giá chất lượng học viên, làm cơ sở khách quan cho việc
tuyển chọn, bổ nhiệm sau này.
(iv)
Thiết lập cơ chế đánh giá và theo dõi năng lực học viên sau đào tạo
Cần xây dựng hệ thống đánh giá học viên không chỉ trong quá trình học mà còn
thông qua theo dõi năng lực thực tiễn sau khi được bổ nhiệm Thẩm phán (các bản
án có bị hủy, sửa; thái độ xét xử; ý kiến phản hồi của đồng nghiệp, đương sự…).
Đây là cách để đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm của quá trình đào tạo và sử
dụng nguồn nhân lực tư pháp.
(v)
Đầu tư nguồn lực ổn định cho công tác đào tạo
Để đào tạo nghiệp vụ thật sự hiệu quả, cần có đội ngũ giảng viên chất lượng,
được đào tạo chuyên sâu về sư phạm tư pháp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần tăng đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị công
nghệ, giáo trình điện tử, kho dữ liệu pháp luật và hỗ trợ học viên trong quá
trình học tập.
Kết luận:
Đào tạo nghiệp vụ xét xử cho công chức là nguồn Thẩm phán không chỉ là điều kiện
bắt buộc trước khi bổ nhiệm, mà còn là nền tảng xây dựng nên đội ngũ Thẩm phán
chuyên nghiệp, công minh và bản lĩnh trong bối cảnh cải cách tư pháp. Để đáp ứng
yêu cầu của một nền tư pháp hiện đại, hệ thống Toà án nhân dân và Học viện Tòa
án cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, nâng cao chất lượng đào tạo, bảo đảm gắn lý
luận với thực tiễn, chuyên môn với đạo đức nghề nghiệp từ đó góp phần xây dựng
nền công lý vì nhân dân, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Lê Mai Anh (Chủ nhiệm, 2017), Thí điểm mô hình đào tạo chung ba chức danh
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư dành cho thí sinh tự do tại Học viện Tư pháp,
Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở - Học viện Tư pháp, Hà Nội
2.
Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày2-6-2005 về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020.
3.
Nghị
quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
4.
Bộ Chính trị,
Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày
22/12/2024
về đột phá phát triển khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia
5.
Bộ Chính trị, Nghị
quyết số 59-NQ/TW Ngày
24/1/2025,
về “Hội nhập quốc tế trong tình hình mới”
6.
Ban chấp hành Trung ương ban hành Nghị
quyết 68-NQ/TW ngày
4/5/2025 của
Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư
nhân
7.
Bộ Giáo dục Đào tạo (2005), Đề án Đổi mới giáo dục ViệtNam.
8.
Bộ Tư pháp (2007), Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức tư
pháp địa phương, Đề tài khoa học cấpBộ.
9.
Bộ Tư pháp (2008), Phương pháp đào tạo các chức danh Tư pháp năm 2009-Bộ Tư
pháp, (Khảo sát tháng 3/2008), Đề tài khoa học cấp Bộ.
10.
Nguyễn Hoà Bình (chủ biên 2019), Xây dựng
Toà án nhân dân xứng đáng là biểu tượng của công lý, lẽ phải và niềm tin,
Nxb Chính trị Quốc Gia sự thật, Hà Nội
11.
Nguyễn Hoà Bình (chủ biên 2022), Cải cách tư pháp tại Toà án nhân dân Việt Nam
trong giai đoạn mới, Nxb Chính trị Quốc Gia sự thật, Hà Nội
12.
Nguyễn Hòa Bình, “Xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Cộng sản, Số 887, tháng 9/2016
(Tr.14-19).
Viện
Ngôn ngữ học (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr. 279
Nguyễn Như Ý (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông
tin, tr. 331.