Thực trạng và định hướng nghiên cứu, giáo dục, đào tạo quyền con người ở Việt Nam
ThS
ThS.
Phạm Như Hưng
ThS. Nguyễn Ngọc Ánh
Tóm tắt
Bài viết tập trung phân tích thực trạng và định hướng phát triển hoạt động
nghiên cứu, giáo dục và đào tạo quyền con người ở Việt Nam trong bối cảnh mới.
Trên cơ sở tổng hợp các chính sách quốc gia, cam kết quốc tế và thực tiễn triển
khai tại nhiều cấp độ, bài viết chỉ ra những thành tựu bước đầu, những hạn chế
còn tồn tại và nhu cầu cấp thiết phải đổi mới tư duy, tiếp cận toàn diện hơn
trong giáo dục quyền con người. Đặc biệt, việc thực hiện Đề án 1309/QĐ-TTg và
các chủ trương của Đảng, Nhà nước như Nghị quyết 35-NQ/TW là những căn cứ chính
trị – pháp lý quan trọng, định hướng cho việc xây dựng hệ sinh thái giáo dục
quyền con người phù hợp với điều kiện chính trị – xã hội Việt Nam. Trên cơ sở
đó, bài viết đề xuất một số định hướng chiến lược nhằm phát triển bền vững hoạt
động nghiên cứu và đào tạo quyền con người, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu
phát triển quốc gia trong thời kỳ hội nhập.
Từ khóa
Thực trạng; định hướng nghiên cứu; giáo dục, đào tạo quyền con người; hội nhập
quốc tế; Đề án 1309; Nghị quyết 35-NQ/TW.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế sâu rộng, quyền con người ngày càng khẳng định vai trò là nền tảng của phát
triển bền vững và toàn diện. Tại Việt Nam, quyền con người không chỉ được khẳng
định trong Hiến pháp năm 2013 mà còn được cụ thể hóa trong nhiều chính sách,
chiến lược và chương trình hành động của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, để thực
thi hiệu quả các quyền này, giáo dục, đào tạo và nghiên cứu quyền con người cần
trở thành một trụ cột trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Việc đưa quyền con người vào chương trình giáo dục không chỉ là yêu cầu tất yếu
trong bối cảnh hội nhập, mà còn là nhu cầu nội tại nhằm nâng cao dân trí, phát
triển nhân cách, năng lực công dân và xây dựng một xã hội dân chủ, nhân văn. Bên
cạnh đó, yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người, như Công ước
ICCPR, CRC, CEDAW… cũng đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao năng lực chuyên môn và
nhận thức xã hội về các chuẩn mực nhân quyền.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, hoạt động giáo dục và đào tạo
quyền con người tại Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều khoảng trống về nội dung,
phương pháp, đội ngũ giảng viên cũng như sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn.
Chính vì vậy, việc khảo sát thực trạng, đánh giá đúng mức các điều kiện triển
khai và đề xuất các định hướng phù hợp là nhiệm vụ mang tính chiến lược nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục quyền con người, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội
nhập trong giai đoạn hiện nay
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Bối cảnh thực hiện nghiên cứu, giáo dục, đào tạo quyền con người ở Việt Nam
hiện nay
Hiện nay, việc nghiên cứu, giáo dục và đào tạo quyền con người ở Việt Nam diễn
ra trong một bối cảnh đặc biệt, với nhiều yếu tố thuận lợi và thách thức đan
xen, thể hiện qua một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất,
quá trình phát triển đất nước trong giai đoạn mới đang đặt ra những yêu cầu vừa
cấp bách vừa lâu dài đối với công tác nghiên cứu lý luận, giáo dục và đào tạo.
Trong đó, nội dung về quyền con người trở thành một bộ phận không thể tách rời,
đòi hỏi phải được đầu tư một cách bài bản, khoa học và gắn liền với thực tiễn
phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại. Trong bối cảnh phát triển mới, Việt Nam
đang đối mặt với nhiều thách thức và cơ hội đan xen. Quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, chuyển đổi số, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, cùng với yêu cầu giữ vững ổn định chính trị – xã hội, tạo ra những nhiệm
vụ cấp bách về đổi mới tư duy, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hệ thống
pháp lý – chính trị. Những yêu cầu này không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế
hay quản trị nhà nước mà còn mở rộng tới lĩnh vực nghiên cứu lý luận, giáo dục
và đào tạo, đặc biệt là quyền con người – một trụ cột quan trọng trong sự phát
triển bền vững và toàn diện. Trong điều kiện đó, quyền con người không còn là
một khái niệm pháp lý – chính trị mang tính trừu tượng mà trở thành nội dung
thiết yếu trong giáo dục công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền và phát triển xã
hội dân chủ, văn minh. Việc đưa quyền con người vào công tác giáo dục, đào tạo
và nghiên cứu không chỉ phục vụ cho mục tiêu hội nhập quốc tế, thực thi các cam
kết với cộng đồng quốc tế, mà còn là nhu cầu nội tại để đáp ứng sự phát triển
dân trí, nhu cầu tự do, công bằng, hạnh phúc và quyền lợi chính đáng của người
dân. Việc đầu tư cho giáo dục và nghiên cứu về quyền con người cần được thực
hiện một cách bài bản và khoa học, tránh hình thức, máy móc. Cần xây dựng chương
trình đào tạo phù hợp với từng cấp học, ngành học; phát triển đội ngũ giảng viên
có chuyên môn sâu; nghiên cứu lý luận kết hợp với khảo sát thực tiễn để xây dựng
các mô hình giáo dục hiệu quả và sát với bối cảnh văn hóa, chính trị, pháp lý
của Việt Nam. Đồng thời, cần gắn chặt với thực tiễn phát triển của đất nước,
phản ánh đúng những vấn đề mà người dân đang quan tâm như quyền tiếp cận thông
tin, quyền bình đẳng giới, quyền được sống trong môi trường trong lành, quyền
học tập, quyền tự do tín ngưỡng, v.v. Qua đó, quyền con người không chỉ là lý
thuyết mà trở thành một phần của đời sống chính trị – xã hội, góp phần nâng cao
chất lượng quản trị quốc gia và phát triển con người Việt Nam toàn diện.
Thứ hai,
Việt Nam ngày càng chủ động và tích cực trong quá trình hội nhập quốc tế sâu
rộng trên nhiều lĩnh vực, bao gồm cả lĩnh vực quyền con người. Việc tham gia và
thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực này đòi hỏi Việt Nam phải không
ngừng nâng cao nhận thức, năng lực và chuẩn mực pháp lý, thông qua các hoạt động
giáo dục và đào tạo. Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, Việt Nam đã và đang trở thành thành viên tích cực của nhiều tổ chức
quốc tế, tham gia vào các công ước, hiệp định quốc tế quan trọng liên quan đến
quyền con người như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR),
Công ước về quyền trẻ em (CRC), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ (CEDAW), v.v.. Điều này không chỉ thể hiện cam kết của Việt Nam
với cộng đồng quốc tế mà còn khẳng định trách nhiệm trong việc bảo vệ, thúc đẩy
quyền con người phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, để thực hiện hiệu quả
các cam kết đó, Việt Nam phải đối mặt với những yêu cầu mới, bao gồm: (1) Nâng
cao nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức và người dân về quyền con người
theo cả góc độ pháp lý quốc tế và thực tiễn trong nước. (2) Tăng cường năng lực
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo sự tương thích giữa pháp luật
Việt Nam với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. (3) Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, am hiểu sâu về quyền con người để tham gia vào
quá trình hoạch định chính sách, thực thi pháp luật và giải quyết các vấn đề xã
hội liên quan đến quyền con người. Tất cả những nhiệm vụ này chỉ có thể thực
hiện được thông qua việc đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo và nghiên cứu
chuyên sâu về quyền con người. Giáo dục không chỉ giúp nâng cao nhận thức mà còn
hình thành năng lực hành động, góp phần xây dựng một xã hội tôn trọng và bảo vệ
quyền con người từ gốc rễ. Hội nhập quốc tế không chỉ là quá trình tiếp nhận, mà
còn là cơ hội để Việt Nam khẳng định vai trò, tiếng nói và mô hình phát triển
phù hợp với điều kiện đặc thù của mình, trong đó, giáo dục quyền con người chính
là một kênh chiến lược để hội nhập một cách chủ động, sáng tạo và có bản sắc
Thứ ba,
việc triển khai Đề án "Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục
trong hệ thống giáo dục quốc dân" theo Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày 5/9/2017
của Thủ tướng Chính phủ đã tạo một bước ngoặt quan trọng. Đề án đang được thực
hiện trên phạm vi toàn quốc, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ban, ngành
Trung ương và chính quyền địa phương, góp phần thúc đẩy giáo dục quyền con người
từ bậc phổ thông đến đại học. Việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
1309/QĐ-TTg ngày 5/9/2017 phê duyệt Đề án “Đưa nội dung quyền con người vào
chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân” đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong chính sách giáo dục quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam
đang tích cực hội nhập quốc tế và đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Mục tiêu xuyên suốt của Đề án là tích hợp, lồng ghép các nội dung về
quyền con người một cách phù hợp, hiệu quả vào chương trình giáo dục từ cấp phổ
thông đến đại học, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết và năng lực thực hiện
quyền con người cho học sinh, sinh viên – những chủ thể trung tâm của sự phát
triển đất nước. Điểm nổi bật của Đề án 1309 là: (1) Phạm vi triển khai toàn
quốc, bảo đảm tính bao phủ trong toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân; (2) Sự tham
gia, phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cơ quan như Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư
pháp, Bộ Ngoại giao, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, cùng chính quyền
các địa phương và các cơ sở giáo dục, đào tạo; (3) Nội dung giảng dạy được thiết
kế phù hợp với đặc điểm từng bậc học, từng nhóm ngành đào tạo, đảm bảo sự nhất
quán về mặt tư tưởng và tính thực tiễn trong triển khai; (4) Chú trọng công tác
bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ giáo viên và giảng viên về kiến thức, phương pháp và
kỹ năng giảng dạy quyền con người. Sự triển khai đồng bộ của Đề án không chỉ góp
phần lan tỏa kiến thức và giá trị về quyền con người trong hệ thống giáo dục mà
còn góp phần hình thành văn hóa pháp quyền, ý thức tôn trọng, bảo vệ và thực
hiện quyền con người ngay từ trong nhà trường – nơi đào tạo thế hệ công dân
tương lai của đất nước. Qua đó, Đề án 1309 không chỉ là một chính sách giáo dục
đơn thuần mà còn là một công cụ chiến lược trong việc hiện thực hóa các cam kết
quốc tế của Việt Nam về quyền con người, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh.
Thứ tư,
hoạt động nghiên cứu và đào tạo chuyên sâu về quyền con người đã bước đầu hình
thành và phát triển tại một số cơ sở đào tạo, nghiên cứu lớn trong cả nước như
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện Ngoại
giao... Những đơn vị này đang đóng vai trò trung tâm trong việc đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công tác bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
ở Việt Nam. Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế và xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhu cầu về nguồn nhân lực am hiểu sâu sắc,
có kỹ năng chuyên môn cao trong lĩnh vực quyền con người ngày càng trở nên cấp
thiết. Đáp ứng nhu cầu đó, thời gian qua, một số cơ sở đào tạo và nghiên cứu lớn
đã tiên phong triển khai các chương trình đào tạo, nghiên cứu chuyên sâu về
quyền con người, đóng vai trò trung tâm trong việc xây dựng nền tảng học thuật
và đào tạo đội ngũ nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người ở Việt Nam. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là nơi đào
tạo cán bộ lý luận chính trị cao cấp cho Đảng và Nhà nước, đã tổ chức nhiều
chương trình bồi dưỡng, đào tạo có lồng ghép nội dung về quyền con người, đồng
thời tổ chức các hội thảo khoa học cấp quốc gia, quốc tế nhằm trao đổi và phát
triển lý luận trong lĩnh vực này. Việc đưa quyền con người vào chương trình đào
tạo lý luận chính trị góp phần gắn kết quyền con người với bản sắc tư tưởng Hồ
Chí Minh và chủ nghĩa xã hội khoa học. Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc biệt là
Trường Đại học Luật và Khoa Luật của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đã
phát triển nhiều đề tài nghiên cứu và chương trình đào tạo đại học, sau đại học
có nội dung chuyên sâu về quyền con người. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người
của trường cũng đóng vai trò nòng cốt trong việc chuyển giao tri thức và cung
cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định chính sách. Học viện Ngoại giao với thế
mạnh về quan hệ quốc tế và luật quốc tế đã triển khai đào tạo chuyên sâu về
quyền con người trong bối cảnh quốc tế, đặc biệt chú trọng các vấn đề như thực
hiện các điều ước quốc tế, cơ chế kiểm điểm phổ quát (UPR), và thúc đẩy hình ảnh
Việt Nam trong các diễn đàn nhân quyền toàn cầu. Các đơn vị này không chỉ dừng
lại ở công tác giảng dạy, mà còn là các trung tâm học thuật, nghiên cứu lý luận
và thực tiễn, hỗ trợ quá trình xây dựng chính sách và chiến lược quốc gia về
quyền con người. Việc phát triển chương trình đào tạo chuyên sâu là nền tảng để
hình thành đội ngũ chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách và cán
bộ quản lý nhà nước về quyền con người. Đây là lực lượng then chốt giúp triển
khai các chương trình hành động quốc gia, thực thi các điều ước quốc tế, đồng
thời đảm nhận vai trò phản biện, cố vấn chính sách và truyền thông giáo dục về
quyền con người trong xã hội. Mặc dù đã có những bước tiến đáng kể, hoạt động
nghiên cứu và đào tạo chuyên sâu về quyền con người tại Việt Nam vẫn còn đối mặt
với một số khó khăn như: Thiếu tài liệu học thuật chuyên sâu mang tính hệ thống;
Hạn chế về đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao; Cần tăng cường hợp tác
quốc tế và trao đổi học thuật; Nhu cầu gắn kết giữa lý luận với thực tiễn còn
chưa cao. Tuy nhiên, triển vọng phát triển là rất lớn khi Đảng và Nhà nước ngày
càng coi trọng quyền con người như một mục tiêu phát triển bền vững; đồng thời,
xã hội Việt Nam cũng ngày càng nâng cao nhận thức và nhu cầu tiếp cận kiến thức,
kỹ năng về quyền con người trong các lĩnh vực đời sống
Thứ năm,
Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 20/10/2018 của Bộ Chính trị về "Tăng cường bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
trong tình hình mới" là cơ sở chính trị quan trọng, định hướng cho việc nghiên
cứu, giáo dục và đào tạo quyền con người theo định hướng đúng đắn, phù hợp với
điều kiện, bối cảnh và yêu cầu phát triển của Việt Nam. Nghị quyết 35 xác định
rõ: bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ sống còn, trong đó phải kiên
quyết, kiên trì đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái về chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã
hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc nghiên cứu, giáo dục quyền con người ở Việt Nam phải
được đặt trong hệ quy chiếu tư tưởng của Đảng, bảo đảm: Tính định hướng chính
trị – tư tưởng rõ ràng, không để các quan điểm lệch lạc, xuyên tạc xâm nhập vào
chương trình giảng dạy; Khẳng định sự thống nhất giữa phát triển quyền con người
và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trái ngược với các luận điểm cho
rằng chỉ có đa nguyên chính trị, đa đảng mới bảo đảm được quyền con người. Việc
giáo dục quyền con người không thể tách rời khỏi nhiệm vụ giữ vững an ninh tư
tưởng – văn hóa. Do đó, các chương trình đào tạo cần: Lồng ghép nội dung đấu
tranh tư tưởng vào giảng dạy quyền con người, giúp người học phân biệt được ranh
giới giữa việc thực thi quyền con người chính đáng và hành vi lợi dụng quyền con
người để chống phá Nhà nước; Trang bị kỹ năng phản biện, lập luận khoa học và
lập trường chính trị vững vàng, đặc biệt đối với cán bộ, đảng viên, sinh viên
ngành luật, chính trị, báo chí, công an, quân đội; Tăng cường tuyên truyền,
truyền thông giáo dục về quyền con người gắn với lợi ích quốc gia – dân tộc, góp
phần xây dựng “lá chắn tư tưởng” trong xã hội. Triển khai Nghị quyết 35 cũng
đồng nghĩa với việc nâng cao năng lực cho đội ngũ nghiên cứu, giảng viên sao cho
họ không chỉ giỏi chuyên môn mà còn vững về tư tưởng, sâu về lập luận, nhạy bén
trong phản bác các quan điểm sai trái. Điều này đặt ra yêu cầu mới: Phải có
chương trình bồi dưỡng chuyên sâu về “quyền con người trong bối cảnh bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng”; Đổi mới cách tiếp cận trong biên soạn tài liệu giảng
dạy, nghiên cứu, tránh sao chép máy móc mô hình phương Tây, đồng thời làm rõ
tính đặc thù, hợp hiến và hợp pháp của mô hình bảo đảm quyền con người tại Việt
Nam; Thúc đẩy các công trình nghiên cứu gắn kết giữa quyền con người với ổn định
chính trị, an sinh xã hội, quyền phát triển – những giá trị đặc trưng mà Việt
Nam đang theo đuổi
2. Thực trạng nghiên cứu, giáo dục, đào tạo quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, Xây dựng/lồng ghép giảng dạy quyền con người trong các chương trình
đào tạo, bồi dưỡng
Trên cơ sở lấy ý kiến của các Bộ, ngành và các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, ngày
5/9/2017, Chính phủ phê duyệt Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương
trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đây là đề án có ý nghĩa rất
quan trọng nhằm mục tiêu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quyền con người nhằm
tạo sự chuyển biến trong nhận thức của người học, của đội ngũ nhà giáo, cán bộ
quản lý giáo dục về tầm quan trọng, ý thức tự bảo vệ các quyền của bản thân, tôn
trọng nhân phẩm, các quyền và tự do của người khác; ý thức về trách nhiệm, nghĩa
vụ của công dân đối với Nhà nước và xã hội, góp phần phát triển toàn diện con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững của đất nước. Đề
án được xây dựng, một phần cũng nhằm thực hiện khuyến nghị về vấn đề tăng cường
giáo dục, nâng cao nhận thức về quyền con người mà Việt Nam chấp nhận trong cả
hai chu kỳ báo cáo UPR.
Cũng trong Đề án này, Chính phủ xác định mục tiêu đến năm 2025, 100% các cơ sở
giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân tổ chức giáo dục quyền con người cho
người học. Đồng thời, trên cơ sở góp ý của các cơ quan, tổ chức, cơ quan xây
dựng Đề án có sự điều chỉnh phù hợp với nội dung lồng ghép giáo dục quyền con
người cho phù hợp với từng cấp học, cụ thể:
Đối với học sinh tiểu học (cấp I), môn học Đạo đức bao gồm các bài học nhằm
hướng dẫn các em tôn trọng người khác như: tôn trọng khách nước ngoài, tôn trọng
thư từ, tài sản của người khác (lớp 3); tôn trọng phụ nữ (lớp 5)… Trong các bài
học này, tuy các khái niệm cụ thể về quyền chưa được sử dụng (chẳng hạn khi nói
về tôn trọng phụ nữ thì mới nêu các lý do về đạo đức, xã hội chứ chưa đề cập đền
"quyền của phụ nữ") và các kiến thức, thông tin chuyển tải mới ở mức độ đơn
giản, nhưng rõ ràng, thông qua các bài học kể trên, học sinh có thể hiểu được
một số nguyên tắc cơ bản của quyền con người và nghĩa vụ tôn trọng các quyền con
người của các nhóm đối tượng có liên quan.
Ở cấp trung học cơ sở phổ thông (cấp II), số lượng bài học về quyền con người
trong chương trình học nhiều hơn, các bài học chứa đựng những kiến thức rộng và
sâu hơn về quyền con người. Mặc dù vậy, tương tự như ở cấp tiểu học, các bài học
về quyền con người ở cấp trung học cơ sở vẫn được thiết kế thông qua những bối
cảnh sinh hoạt hàng ngày và phù hợp với nhận thức xã hội của học sinh theo từng
độ tuổi, để giúp các em có thể hiểu được các khái niệm và phạm trù đôi khi khá
phức tạp trên lĩnh vực này.
Trong chương trình giáo dục cấp III, môn học Giáo dục công dân mang tính lý
thuyết và tính khái quát khá cao, nhiều nội dung tương đối trừu tượng so với lứa
tuổi thiếu niên. Chương trình lớp 10 đề cập một số nghĩa vụ của công dân nhưng
chủ yếu từ khía cạnh đạo đức (đối với cộng đồng, với xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc), lớp 11 có các bài: Nhà nước XHCN (Bài 9), nền dân chủ XHCN (Bài 10). Các
kiến thức về quyền con người tập trung nhiều hơn ở chương trình giáo dục công
dân lớp 12. Theo đó, học sinh được tiếp cận với nhiều nội dung liên quan đến
quyền công dân như bài Hiến pháp, các quyền trong lĩnh vực dân sự (trong bài
Luật dân sự), các quyền trong tố tụng và một số quyền trong các lĩnh vực cụ thể
như đất đai, thuế, hành chính…
Riêng với bậc học đại học, việc giảng dạy về quyền con người chủ yếu tập trung ở
các trường có đào tạo chuyên ngành luật. Giáo dục nhân quyền trong các trường
đại học ở Việt Nam hướng tới: hoặc mục tiêu nhằm đào tạo các chuyên gia trong
lĩnh vực nhân quyền phục vụ công tác bảo vệ, thúc đẩy quyền con người trong các
trường đại học đào tạo chuyên ngành luật; hoặc nhằm mục đích giáo dục về nhân
quyền cho sinh viên các trường đại học để phục vụ trong các lĩnh vực khác nhau.
Tại các trường đại học/cao đẳng hiện nay, quyền con người được tích hợp, lồng
ghép vào một số môn học như Luật hiến pháp, Luật hành chính, Luật hình sự, Luật
tố tụng hình sự, Luật công pháp quốc tế..., thậm chí có những cơ sở nghiên cứu
và đào tạo xây dựng những môn học độc lập. Báo cáo cuối cùng đánh giá việc giảng
dạy nhân quyền tại Học viện Ngoại giao và các trường đại học tại Việt Nam của
nhóm tư vấn quốc gia vào tháng 12/2013 đã đưa ra những phân tích, đánh giá khá
chi tiết về việc giảng dạy quyền con người trong các trường đại học hiện nay ở
Việt Nam, như:
Khoa Luật (Đại học quốc gia Hà Nội). Đây là cơ sở đào tạo có khóa học chính thức
riêng về nhân quyền. Ngoài ra, cơ sở này cũng xây dựng chương trình đào tạo thạc
sỹ về nhân quyền (với sự hỗ trợ của Trung tâm nhân quyền Na-uy, thuộc Đại học
Oslo)
Trường Đại học Luật Hà Nội. Trườngcó một khóa học về nhân quyền thuộc chương
trình giảng dạy luật quốc tế của trường (môn học tự chọn, tương đương 03 tín chỉ
trong hơn 100 đơn vị học trình của chuyên ngành luật quốc tế). Bên cạnh đó,
chương trình đào tạo cử nhân của Đại học Luật Hà Nội có rất nhiều môn học về
luật trong nước, mà nội dung lại liên quan chặt chẽ tới khía cạnh giáo dục nhân
quyền, cụ thể là môn học về luật dân sự, thủ tục tố tụng dân sự, quy định đặc
biệt về xử án dân sự, luật về thi hành phán quyết dân sự, luật hôn nhân, luật sở
hữu trí tuệ, luật về bồi thường của nhà nước, luật nhà ở, luật đăng ký giao dịch
an toàn, luật bảo hiểm dân sự, luật về quyền công dân, luật bình đẳng giới, luật
ngăn chặn bạo lực gia đình, luật về quyền trẻ em, kỹ năng tư vấn pháp luật trong
quy trình dân sự…
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Ở Trường đại học này, luật nhân quyền quốc tế là
một môn học trong chương trình Công pháp quốc tế của Khoa Luật quốc tế (gồm 5
chủ đề: luật tổ chức quốc tế, luật biển, luật hàng không, luật miễn trừ ngoại
giao và lãnh sự, luật nhân quyền quốc tế). Khóa học luật nhân quyền quốc tế tại
trường là 30 tiết học, gồm 3 chủ đề lớn: (i) Sự phát triển của nhân quyền và dân
quyền (lịch sử, bản chất và phạm vi của nhân quyền và dân quyền, hệ thống luật
quốc tế về nhân quyền); (ii) Công nhận pháp lý đối với nhân quyền và dân quyền
tại Việt Nam (Luật hiến pháp); (iii) Đảm bảo thực thi nhân quyền và dân quyền
(đảm bảo chính trị và kinh tế, đảm bảo về xã hội và bảo vệ pháp luật: trách
nhiệm của nhà nước, cộng đồng, tổ chức và cá nhân; cơ chế và quy trình bảo vệ;
nhận thực xã hội và xây dựng năng lực, bồi thường pháp luật, dịch vụ luật pháp).
Đối với hệ đào tạo sau đại học. Hiện nay, số lượng các trung tâm nghiên cứu/cơ
sở đào tạo có mã ngành đào tạo sau đại học độc lập về quyền con người khá hạn
chế, chỉ có một số chương trình như: Chương trình thạc sỹ chuyên ngành pháp
luật về quyền con người của Đại học quốc gia Hà Nội,
chương trình thạc sỹ về quyền con người của Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam…
Bên cạnh những chính sách và chương trình cấp quốc gia, Việt Nam đã từng bước
thiết lập hệ thống các cơ sở nghiên cứu chuyên sâu về quyền con người nhằm cung
cấp nền tảng khoa học cho việc hoạch định chính sách, giảng dạy và đào tạo. Nổi
bật trong số đó là Viện Quyền con người trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh – cơ quan đầu ngành trong đào tạo cán bộ lý luận chính trị về quyền
con người; Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người và Quyền công dân thuộc Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội – nơi triển khai các hoạt động đào tạo và nghiên
cứu gắn với các chuẩn mực pháp lý quốc tế; cùng với Trung tâm Nghiên cứu Pháp
luật về Quyền con người và Quyền công dân thuộc Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh – đơn vị chú trọng lồng ghép nhân quyền vào đào tạo luật chuyên sâu.
Ngoài ra, một số viện nghiên cứu thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam như
Viện Gia đình và Giới, Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Nghiên cứu Con người… đã
thiết lập các bộ phận hoặc phòng chuyên môn nghiên cứu về quyền con người. Các
trung tâm này có định hướng hoạt động đa dạng: từ đào tạo – giảng dạy, đến
nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm đóng góp vào tiến trình hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách và nâng cao hiểu biết xã hội về nhân quyền. Điểm chung
trong chương trình đào tạo tại các cơ sở này là sự kết hợp hài hòa giữa lý luận
và thực tiễn, hướng tới xây dựng một nhận thức toàn diện, khoa học và cập nhật
về quyền con người cho người học.
Bên cạnh các chương trình đào tạo tập trung và dài hạn, nhiều cơ sở còn triển
khai các khóa bồi dưỡng ngắn hạn dành cho cán bộ, công chức, viên chức theo các
đề án quốc gia hoặc theo nhu cầu riêng của từng cơ quan, tổ chức. Những chương
trình này góp phần quan trọng trong việc phổ biến kiến thức cơ bản, nâng cao
nhận thức và kỹ năng thực thi quyền con người trong các lĩnh vực quản lý nhà
nước và hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, thực tế triển khai cho thấy việc giảng dạy quyền con người trong hệ
thống giáo dục đại học tại Việt Nam vẫn chưa đạt được tính thống nhất và đồng
bộ. Mặc dù nhiều trường đã lồng ghép nội dung quyền con người vào các học phần
như luật quốc tế, công pháp quốc tế, hay lý luận chính trị, song đa số vẫn chỉ
coi đây là một chủ đề bổ trợ, chưa phát triển thành học phần độc lập mang tính
bắt buộc. Một số trường có xây dựng môn học riêng về quyền con người, nhưng chủ
yếu dưới dạng môn tự chọn, dẫn đến tính phổ cập và khả năng lan tỏa của tri thức
nhân quyền còn hạn chế. Bên cạnh đó, phương pháp giảng dạy và tài liệu học tập
vẫn chưa thực sự thống nhất và thiếu tính cập nhật, chưa theo kịp yêu cầu đổi
mới chương trình đào tạo trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, Tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học và tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về quyền con người
Hoạt động nghiên cứu khoa học về quyền con người tại các cơ sở đào tạo, học viện
ở Việt Nam đã có những bước tiến đáng ghi nhận. Không chỉ dừng lại ở các nỗ lực
đơn lẻ mang tính chất nội bộ, quá trình nghiên cứu này ngày càng được mở rộng
với sự hợp tác chặt chẽ cùng các tổ chức, quốc gia có truyền thống về bảo vệ
quyền con người như Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Australia, và các thể chế thuộc
Liên minh châu Âu (EU). Đây là minh chứng rõ nét cho xu thế hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong những lĩnh vực mang tính
toàn cầu và nhân văn sâu sắc như quyền con người. Các hình thức hoạt động nghiên
cứu đa dạng, bao gồm tổ chức hội thảo khoa học quốc tế và trong nước, các lớp
bồi dưỡng chuyên đề ngắn hạn, chương trình trao đổi học giả, chuyên gia quốc tế,
và đặc biệt là thực hiện các dự án, đề tài nghiên cứu liên quan đến việc triển
khai các khuyến nghị từ Cơ chế Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR). Ngoài ra, việc
biên soạn các giáo trình, tài liệu tham khảo, hướng dẫn hỏi - đáp chuyên sâu
cũng góp phần hệ thống hóa và lan tỏa tri thức khoa học về quyền con người. Về
mặt học thuật, các kết quả nghiên cứu không chỉ giúp củng cố hệ thống lý luận
hiện có, mà còn mở rộng, làm sâu sắc thêm các khía cạnh thực tiễn, từ đó cung
cấp cơ sở khoa học đáng tin cậy cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính
sách công tại Việt Nam. Các luận điểm, khuyến nghị rút ra từ các công trình
nghiên cứu này là nguồn tham chiếu giá trị cho các cơ quan nhà nước trong quá
trình hoạch định và xây dựng chính sách. Đồng thời, các kết quả này còn là kho
tàng tri thức hữu ích cho sinh viên, giảng viên, nhà nghiên cứu, và cả những
người làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
Song song với hoạt động nghiên cứu, công tác tuyên truyền và phổ biến kiến thức
về quyền con người giữ vai trò then chốt trong việc chuyển tải thông tin từ tầm
vĩ mô đến từng người dân. Những hoạt động này đã và đang được triển khai thông
qua nhiều hình thức phong phú như: hội thảo, tọa đàm, tập huấn, các buổi nói
chuyện chuyên đề, sinh hoạt câu lạc bộ, cùng với việc biên soạn và phát hành tài
liệu tuyên truyền chuyên biệt. Một điểm đáng chú ý là nội dung tuyên truyền
không chỉ giới hạn trong các quy định của pháp luật trong nước mà còn bao gồm
các điều ước, công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đặc biệt, các thông
tin liên quan đến Cơ chế UPR như quy trình báo cáo, tiếp nhận và thực hiện
khuyến nghị, các khó khăn, thuận lợi trong quá trình triển khai... cũng được
giới thiệu rộng rãi. Điều này giúp người dân hiểu rõ hơn vai trò của Việt Nam
trong cộng đồng quốc tế cũng như trách nhiệm thực hiện cam kết quốc tế của quốc
gia. Công tác truyền thông về quyền con người giúp nâng cao nhận thức của người
dân không chỉ về các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân mà còn về nghĩa vụ,
trách nhiệm cá nhân trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền của người khác. Đây
chính là yếu tố then chốt để tạo dựng một xã hội công bằng, dân chủ và nhân văn.
Tuyên truyền hiệu quả cũng góp phần thu hẹp khoảng cách giữa quy định pháp luật
và thực tiễn áp dụng, từ đó thúc đẩy quá trình nội luật hóa các tiêu chuẩn quốc
tế về quyền con người, tạo nền tảng bền vững cho sự phát triển xã hội và nhà
nước pháp quyền.
Thứ ba, Sự tham gia của cơ sở nghiên cứu/đào tạo vào quy trình xây dựng và phản
biện các báo cáo quốc gia về quyền con người
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào các cơ chế nhân quyền
quốc tế, việc xây dựng các báo cáo quốc gia về quyền con người – trong đó có báo
cáo theo Cơ chế Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) – là một nhiệm vụ quan trọng thể
hiện trách nhiệm và cam kết của Nhà nước đối với cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên,
trên thực tế, sự tham gia của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo vào quá trình này
vẫn còn khá hạn chế.
Dù vậy, nếu được huy động đúng mức, các cơ sở này – với thế mạnh về nghiên cứu
học thuật, năng lực phân tích chính sách và kinh nghiệm thực tiễn trong đào tạo,
giáo dục – hoàn toàn có thể đóng vai trò tích cực trong việc đóng góp thông tin,
phản biện chính sách và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện nội dung
các báo cáo quốc gia. Những đóng góp này sẽ góp phần gia tăng tính khách quan,
toàn diện và chiều sâu khoa học của báo cáo, đồng thời phản ánh rõ hơn thực tiễn
thực thi quyền con người ở cấp cộng đồng và cơ sở.
Bên cạnh đó, cần nhấn mạnh rằng Cơ chế UPR – được thiết lập bởi Hội đồng Nhân
quyền Liên Hợp Quốc – không chỉ là một quy trình đánh giá định kỳ tình hình nhân
quyền ở các quốc gia thành viên, mà còn là một cơ chế thúc đẩy đối thoại cởi mở,
hợp tác toàn diện và cam kết cải thiện thực chất tình hình nhân quyền trên phạm
vi toàn cầu. UPR hoạt động trên nguyên tắc bình đẳng, minh bạch, khách quan và
bao trùm, và do đó, không chỉ dựa vào báo cáo chính thức của chính phủ, mà còn
tiếp nhận và xem xét các nguồn thông tin từ nhiều chủ thể khác nhau, bao gồm:
Các tổ chức phi chính phủ (NGOs), Các cơ quan nhân quyền quốc gia (NHRIs), Các
tổ chức nghiên cứu và đào tạo, Các cá nhân, học giả hoạt động trong lĩnh vực
quyền con người.
Chính vì vậy, các báo cáo nghiên cứu độc lập từ các viện, trung tâm chuyên môn
hoàn toàn có thể trở thành nguồn tư liệu tham chiếu quan trọng, góp phần định
hình các nội dung đánh giá, khuyến nghị và thảo luận tại Hội đồng Nhân quyền
trong khuôn khổ UPR.
Đây không chỉ là cơ hội để các cơ sở học thuật thể hiện vai trò xã hội, mà còn
là dịp để nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu, gắn kết tri thức hàn lâm với
thực tiễn chính sách, góp phần vào tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và
bảo đảm quyền con người tại Việt Nam một cách thực chất, phù hợp với chuẩn mực
quốc tế.
3. Định hướng đối với hoạt động nghiên cứu, giáo dục, đào tạo quyền con người ở
Việt Nam trong thời gian tới
Trong bối cảnh đất nước tiếp tục đổi mới toàn diện, hội nhập quốc tế sâu rộng và
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu, giáo dục và đào
tạo quyền con người không chỉ là một yêu cầu học thuật mà còn mang tính chiến
lược lâu dài, góp phần xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và nhân
văn. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này, cần bám sát và triển khai theo các định
hướng cụ thể sau:
Một là,
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc nhận
thức và thực hiện quyền con người trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết
nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững, công bằng và dân chủ của mỗi quốc gia. Ở
Việt Nam, quyền con người không phải là khái niệm du nhập một cách máy móc từ
bên ngoài, mà đã được nhận thức, kế thừa và phát triển trên nền tảng tư tưởng,
đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và truyền thống lịch sử, văn hóa
của dân tộc. Vì vậy, việc tiếp tục quán triệt và bám sát các quan điểm, chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong nghiên cứu và giáo
dục quyền con người là yêu cầu mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa định hướng và
chỉ đạo toàn diện cho toàn bộ hoạt động lý luận cũng như thực tiễn trong lĩnh
vực này. Trước hết, nghiên cứu và giáo dục quyền con người cần được đặt trong
khuôn khổ tổng thể của hệ tư tưởng chính trị - pháp lý Việt Nam, được định hình
bởi các văn kiện cốt lõi như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 2013, cùng với các nghị quyết của Trung ương
Đảng liên quan đến công tác cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền, nâng
cao hiệu quả quản trị và phòng, chống tiêu cực. Điều này không chỉ đảm bảo sự
thống nhất về nhận thức, tư tưởng và hành động trong toàn hệ thống chính trị, mà
còn tạo nền tảng pháp lý và học thuật vững chắc để phát triển các mô hình giáo
dục quyền con người phù hợp với điều kiện cụ thể về chính trị, văn hóa và pháp
lý của Việt Nam. Một trong những đặc điểm nổi bật trong tư duy về quyền con
người của Đảng ta là sự kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ, giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa tự do và kỷ cương, trách nhiệm. Khác
với cách tiếp cận thuần túy mang tính cá nhân chủ nghĩa như ở một số quốc gia
phương Tây, quyền con người trong hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
gắn liền với trách nhiệm của mỗi công dân đối với cộng đồng, quốc gia và dân
tộc. Đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các giá trị phổ quát của quyền con
người với những giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt
Nam, đồng thời phản ánh rõ đặc điểm của một quốc gia đang xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, cần tiếp tục khẳng định và
quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, coi đó là kim chỉ
nam cho các hoạt động nghiên cứu và đào tạo trong lĩnh vực này. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã sớm thể hiện tầm nhìn chiến lược, nhạy bén và toàn diện về quyền con
người, khi khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 rằng: "Tất cả mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được: quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc." Tư tưởng đó
không chỉ dừng lại ở lời nói, mà còn được hiện thực hóa xuyên suốt trong quá
trình cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Với tinh
thần đó, các hoạt động nghiên cứu và đào tạo về quyền con người trong thời gian
tới cần hướng đến việc: (1) Tăng cường phát triển hệ thống lý luận phù hợp với
đặc điểm xã hội Việt Nam. Gắn kết chặt chẽ với yêu cầu thực tiễn trong xây dựng
chính sách, pháp luật về quyền con người. (2) Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng
viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu pháp luật quốc tế nhưng đồng thời
trung thành với đường lối, tư tưởng của Đảng. (3) Xây dựng giáo trình, tài liệu
giảng dạy phù hợp, vừa bảo đảm tính khoa học, khách quan, vừa bảo lưu được bản
sắc chính trị, pháp lý và văn hóa Việt Nam.
Hai là,
Đẩy mạnh thực hiện Đề án 1309 hướng tới xây dựng văn hóa quyền con người tại
Việt Nam. Đề án 1309 không chỉ là một sáng kiến chính sách mang tính tích hợp
nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục quốc dân, mà còn đóng vai trò
như một nền tảng chiến lược nhằm hình thành và lan tỏa văn hóa quyền con người
trong đời sống xã hội hiện đại của Việt Nam. Việc thực hiện đề án này cần được
tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ và toàn diện, cả về phạm vi triển khai lẫn chiều sâu
nội dung. Ở phương diện chiều rộng, cần mở rộng phạm vi thực hiện đến các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp, trung tâm bồi dưỡng cán bộ, các thiết chế chính trị – xã
hội, nhằm bảo đảm sự phổ cập và tiếp cận đa dạng đối tượng người học. Ở phương
diện chiều sâu, cần tập trung vào việc xây dựng hệ thống học liệu – giáo trình
mang tính chuẩn hóa và cập nhật; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên thông
qua các chương trình đào tạo chuyên sâu; đồng thời đẩy mạnh tổ chức các hội
thảo, tọa đàm khoa học về quyền con người nhằm tạo diễn đàn học thuật để chia
sẻ, đối thoại và cập nhật tri thức mới. Xây dựng một nền văn hóa quyền con người
không chỉ là việc phổ biến các khái niệm lý luận, mà đòi hỏi sự thẩm thấu các
giá trị nhân văn cốt lõi vào nhận thức và hành vi của từng cá nhân trong đời
sống thường nhật. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua một nền giáo dục có
tính hệ thống, liên tục và bền vững – nơi mà quyền con người được nhìn nhận
không chỉ như một học thuyết pháp lý, mà còn là nguyên tắc tổ chức xã hội, chuẩn
mực đạo đức và động lực phát triển quốc gia.
Ba là,
Gắn hoạt động giáo dục, đào tạo quyền con người với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng. Trong bối cảnh thế giới đang chuyển biến phức tạp với nhiều
thách thức an ninh phi truyền thống, đặc biệt là trên không gian mạng và mặt
trận tư tưởng, vấn đề quyền con người ngày càng trở thành một chủ đề nhạy cảm,
dễ bị lợi dụng vào mục đích chính trị. Các thế lực thù địch, phản động thường
xuyên sử dụng chiêu bài “quyền con người” như một công cụ để xuyên tạc tình hình
trong nước, công kích vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận
thành quả của công cuộc đổi mới và phát triển, cũng như kích động, chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo về
quyền con người không thể được thực hiện một cách biệt lập, phi chính trị, mà
cần được đặt trong mối liên hệ hữu cơ, mật thiết với công tác bảo vệ nền tảng tư
tưởng của Đảng – nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, chủ trương của Đảng trong tiến trình xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Việc lồng ghép giáo dục quyền con người với nhiệm vụ bảo vệ tư tưởng
chính trị không đồng nghĩa với việc làm mất đi tính khách quan, khoa học của
hoạt động giảng dạy. Trái lại, chính sự gắn kết này giúp người học nhận thức rõ
ràng rằng: quyền con người ở Việt Nam không tách rời thực tiễn chính trị - xã
hội cụ thể, mà là thành quả của một quá trình cách mạng lâu dài, được vun đắp
bởi lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và phát triển vì con người. Do đó, nội dung đào tạo quyền con người
cần được thiết kế một cách hài hòa giữa ba yếu tố: tính khoa học, tính khách
quan, và tính định hướng chính trị. Các chương trình giảng dạy không chỉ cần cập
nhật những nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam là thành viên, mà còn phải
làm rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc tiếp cận, vận dụng các giá trị
quyền con người một cách có chọn lọc, phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa và
thể chế chính trị đặc thù của đất nước. Đặc biệt, trong các cơ sở giáo dục thuộc
lực lượng vũ trang nhân dân như quân đội và công an – những lực lượng nòng cốt
trong việc bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự xã hội – việc giáo dục quyền con
người cần được lồng ghép chặt chẽ với giáo dục chính trị, tư tưởng, nhằm nâng
cao nhận thức lý luận, bản lĩnh chính trị, khả năng nhận diện và đấu tranh với
các quan điểm sai trái, phản động trên mặt trận tư tưởng – lý luận. Qua đó,
không chỉ giúp cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ giá trị thực chất của quyền con người
trong bối cảnh Việt Nam, mà còn trang bị cho họ công cụ lý luận sắc bén để bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và giữ vững trận địa tư tưởng trong tình hình
mới..
Bốn là,
Khuyến khích, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu quyền con người trong các cơ sở giáo
dục và đào tạo. Nghiên cứu khoa học về quyền con người cần được xác định là một
hướng đi chiến lược trong tổng thể phát triển khoa học xã hội và nhân văn ở Việt
Nam, với vai trò là nền tảng lý luận phục vụ hoạch định chính sách và là động
lực nâng cao chất lượng đào tạo, giáo dục thực tiễn. Các cơ sở giáo dục và đào
tạo, đặc biệt là các trường đại học và viện nghiên cứu, cần được khuyến khích
đóng vai trò trung tâm trong việc phát triển tri thức học thuật về quyền con
người, đồng thời gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận với yêu cầu thực tiễn
quản trị quốc gia và hội nhập quốc tế. Để đạt được điều đó, Nhà nước và các bộ,
ngành liên quan cần sớm ban hành và vận hành hiệu quả các cơ chế hỗ trợ nghiên
cứu: bao gồm tài trợ đề tài trọng điểm, tạo điều kiện cho công bố quốc tế, thúc
đẩy hợp tác liên ngành, liên trường và xây dựng mạng lưới nghiên cứu liên kết
trong nước và toàn cầu về quyền con người. Việc khuyến khích các sáng kiến học
thuật độc lập, sáng tạo từ các cơ sở đào tạo không chỉ là giải pháp thiết thực
nhằm làm giàu hệ sinh thái nghiên cứu, mà còn là động lực đổi mới tư duy tiếp
cận, phản biện chính sách và nâng cao năng lực tham gia vào các diễn đàn khoa
học quốc tế. Sự phát triển của nghiên cứu quyền con người trong môi trường đại
học không chỉ dừng lại ở khía cạnh học thuật, mà còn góp phần hình thành đội ngũ
chuyên gia có khả năng giải quyết các vấn đề xã hội hiện hữu, thúc đẩy tiến
trình xây dựng nhà nước pháp quyền, bảo đảm công bằng, dân chủ và nhân văn –
những giá trị cốt lõi mà xã hội Việt Nam đang hướng tới.
Năm là,
Mở rộng hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, giáo dục và đào tạo quyền con người.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế không chỉ là phương thức tiếp cận
các tri thức tiên tiến về quyền con người trên thế giới, mà còn là một cơ chế
thiết yếu để Việt Nam khẳng định vị thế, thể hiện trách nhiệm quốc tế và tăng
cường năng lực nội sinh trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo. Việc chủ động hội
nhập thông qua hợp tác học thuật và thể chế là điều kiện tiên quyết để nâng cao
chất lượng nghiên cứu và giảng dạy quyền con người, đồng thời bảo đảm sự hài hòa
giữa chuẩn mực quốc tế và đặc điểm chính trị – pháp lý trong nước. Trong thời
gian tới, cần tiếp tục thúc đẩy các hướng hợp tác cụ thể và thiết thực, bao gồm:
(1) Tăng cường liên kết với các tổ chức quốc tế như UNDP, UNESCO, OHCHR, cùng
các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền, nhằm tranh thủ
nguồn lực, chuyên gia và kinh nghiệm toàn cầu; (2) Đẩy mạnh các chương trình
trao đổi học giả, học bổng và đào tạo liên kết với các trường đại học, viện
nghiên cứu có uy tín, qua đó cập nhật kiến thức, phương pháp giảng dạy và công
cụ đánh giá hiện đại; (3) Tham gia tích cực vào các diễn đàn, hội nghị quốc tế
chuyên ngành để lan tỏa kinh nghiệm Việt Nam, học hỏi mô hình phù hợp và đóng
góp tiếng nói có trách nhiệm trong các thảo luận toàn cầu về quyền con người.
Hợp tác quốc tế không chỉ giúp làm phong phú nội dung giảng dạy và nghiên cứu,
mà còn thúc đẩy sự chuyển giao tri thức, nâng cao năng lực cho đội ngũ chuyên
gia, giảng viên trong nước, đồng thời mở rộng cơ hội xây dựng mạng lưới học
thuật toàn cầu. Qua đó, Việt Nam có thể vừa học hỏi, vừa định hình được cách
tiếp cận riêng về quyền con người, gắn với bản sắc văn hóa và định hướng phát
triển bền vững của quốc gia..
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Giáo dục, đào tạo và nghiên cứu về quyền con người tại Việt Nam đang bước vào
giai đoạn phát triển có tính chiến lược, đặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu
rộng, chuyển đổi số toàn diện và yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Những thành tựu bước đầu, cùng với sự tham gia ngày càng tích cực của các cơ sở
đào tạo, nghiên cứu, đã tạo nền tảng quan trọng để hình thành văn hóa quyền con
người trong xã hội. Tuy nhiên, để quá trình này thực sự đi vào chiều sâu và có
sức lan tỏa rộng rãi, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, đa dạng hóa phương pháp
tiếp cận, tăng cường hợp tác quốc tế và nội lực hóa tri thức nhân quyền theo
hướng phù hợp với điều kiện chính trị, văn hóa, pháp lý của Việt Nam. Đặc biệt,
cần bảo đảm sự hài hòa giữa tính khoa học – khách quan và tính định hướng chính
trị – tư tưởng trong thiết kế và triển khai các chương trình giáo dục quyền con
người. Với sự quyết tâm chính trị từ Trung ương, cùng sự vào cuộc đồng bộ của
các bộ, ngành, địa phương và hệ thống cơ sở giáo dục, có thể kỳ vọng rằng giáo
dục quyền con người sẽ trở thành một trụ cột quan trọng trong chiến lược phát
triển con người toàn diện, góp phần thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và
xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh tại Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Báo cáo cuối cùng (12/2013), Đánh giá việc giảng dạy nhân quyền tại Học viện
Ngoại giao và các trường đại học ở Việt Nam, Nhóm tư vấn quốc gia.
2.
Đại học Quốc gia Hà Nội (2020), Chương trình đào tạo Thạc sĩ chuyên ngành Pháp
luật về quyền con người, truy cập tại: https://www.vnu.edu.vn/...
3.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 20/10/2018 của Bộ
Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Hà Nội.
4.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Quyền con người (2022), Tài liệu
đào tạo và bồi dưỡng về quyền con người, Hà Nội.
5.
Hội thảo quốc tế (2020), Nghiên cứu và giáo dục quyền con người ở Việt Nam:
Những cơ hội và thách thức, truy cập tại: http://gass.edu.vn/...
6.
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật.
7.
Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày 05/9/2017 phê duyệt
Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo
dục quốc dân.
8.
UNDP Vietnam (2020), Human Rights Education in Vietnam: Achievements and
Challenges, United Nations Development Programme.
9.
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2021), Thông tin nghiên cứu khoa học về
quyền con người tại Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật.