Nâng cao đạo đức cho đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị hiện nay
Thạc sĩ
Thạc sĩ. NCS: Lưu Đức Điệp
Học viện Tòa án
Tóm tắt:
Công cuộc đổi mới đất nước từ 1986 đến nay đã thu được những thành tự to lớn có
tính chất bước ngoặt lịch sử. Đóng góp vào những thành tựu này có công lớn của
ngành tư pháp, trong đó lực lượng thẩm phán tòa án nhân dân có vài trò quan
trọng. Trong tình hình thế giới có nhiều thay đổi, trong nước, kinh tế, xã hội,
đời sống người dân phát triển mạnh mẽ, các phát sinh của đời sống xã hội ngày
càng đa dạng, phức tạp và khó lường…Do đó, nâng cao đạo đức cho đội ngũ thẩm
phán tòa án nhân dân góp phần vào nâng cao chất lượng công tác xét xử nói riêng
và công tác tư pháp nói chung là cần thiết.
Từ khóa: Đạo đức công vụ, thẩm
phán, phẩm chất đội ngũ thẩm phán, phẩm chất chính trị…
Với gần 79 năm (1945) xây dựng và trưởng thành, trải qua nhiều giai đoạn lịch
sử, gắn với tình hình thực tế của đất nước. Toàn án nhân dân đã đóng góp quan
trọng vào việc duy trì pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền và lợi ích của
nhà nước, của tổ chức và của công dân.
Để có những đóng góp quan trọng đó, trong gần 80 năm qua Đảng, Nhà nước luôn
quan tâm tới công tác tư pháp nhất là tổ chức và hoạt động của ngành tòa án.
Cùng với việc hoàn thiện tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân các cấp, việc đề ra
các giải pháp nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng luôn được
chú trọng và thường xuyên cập nhật. Phát huy truyền thống, tiếp tục xây dựng và
phát triển Tòa án Nhân dân cần quan tâm rèn luyện, nâng cao đạo đức cho đội ngũ
thẩm phán để thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử, xứng đáng là người đại diện của cơ
quan thực hiện quyền tư pháp.
Việc giáo dục đạo đức cho đội ngũ thẩm phán nói riêng và cán bộ làm công tác của
Tòa án nhân dân nói chung được Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Tòa án Nhân dân tối
cao thường xuyên, quyết liệt chỉ đạo tòa án nhân dân các cấp triển khai nghiêm
túc các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng như: Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”,
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, Chỉ thị
số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Bên
cạnh đó ngành Tòa án cũng triển khai sâu, rộng cuộc vận động “Nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ thẩm phán, cán
bộ, công chức tòa án nhân dân các cấp”, đồng thời, triển khai hằng năm các
phong trào thi đua cụ thể đối với ngành toàn án.
Trong những năm qua, trước sự phát triển nhanh của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ, hội nhập quốc tế sâu rộng, kinh tế xã hội phát triển…kéo theo đó là các vụ
án lớn, tính chất phức tạp ngày càng nhiều, số lượng các vụ án ngày càng tăng.
Tuy vậy, với quyết tâm chính trị và tuân thủ quy định của pháp luật nên công tác
xét xử loại vụ án có nhiều tiến bộ bảo đảm cả về chất lượng xét xử lẫn tiến độ
xét xử theo quy định.
Thẩm phán tòa án nhân dân là chủ thể trung tâm của toàn án, người được Đảng, nhà
nước giao thẩm quyền theo quy định của pháp luật, Nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, phán quyết đúng, sai và đưa ra bản án cuối cùng trong vụ
án. Do đó, thẩm phán phải là người giỏi chuyên môn, giỏi về pháp luật, công tâm
trong quá trình xét xử, đạo đức trong sáng, phán quyết công tâm…Do đó, cần rèn
luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho thẩm phán là điều
cần thiết.
1. Nội dung cơ bản của đạo đức thẩm phán
Ở Việt Nam, những tiêu chuẩn đạo đức của cán bộ, công chức nói chung và thẩm
phán nói riêng, được quy định trong nhiều văn bản của Đảng, pháp luật của Nhà
nước như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Ban Chấp hành Trung ương
về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ”; Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp
tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và Chỉ thị
số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Luật Cán bộ, công chức năm 2018; Luật Tổ
chức tòa án nhân dân 2014; Tòa án nhân dân ban hành Quyết định số 87/QĐ-HĐTP
ngày 04-7-2018 của Chánh án Tòa Án nhân dân tối cao về ban hành Bộ quy tắc đạo
đức và ứng xử của thẩm phán.... Đây vừa là những quy định yêu cầu nâng cao chất
lượng chuyên môn, nghiệp vụ, vừa là những quy định có tính chất động lực, làm cơ
sở định hướng phấn đấu, rèn luyện đạo đức của Thẩm phán tòa án trong thực thi
nhiệm vụ.
Đạo đức của Thẩm phán vừa mang các yếu tố của đạo đức xã hội vừa mang yếu tố,
đặc điểm đạo đức nghề nghiệp. Cụ thể như sau:
Một là,
tính
độc lập
trong
quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán tự quyết định trên cơ sở đánh giá của
mình về tình tiết vụ việc, chứng cứ và chỉ tuân theo pháp luật; giữ gìn bản lĩnh
nghề nghiệp để không bị tác động từ bất kỳ sự can thiệp nào.
Cùng với đó, thẩm phán phải quyết định độc lập với các thành viên khác của Hội
đồng xét xử. Đồng thời, phải độc lập với mọi yếu tố tác động, chỉ dựa trên căn
cứ của pháp luật để đưa ra phán quyết cuối cùng, đúng người, đúng tội. Bên cạnh
đó, Thẩm phán cũng không được can thiệp vào hoạt động tố tụng khác hoặc tác động
vào người tham gia tiến hành tố tụng khác như kiểm sát viên, điều tra viên, hội
thẩm nhân dân…
Hai là,
bảo đảm sự
liêm chính,
trong sạch, thẳng thắn, trung thực. Không được mưu cầu tư lợi từ vị trí, địa vị
mà nhà nước giao cho trong quá trình tố tụng. Cùng với đó, Thẩm phán cũng không
được để những người thân trong gia đình, đồng nghiệp, cấp dưới hoặc người có
liên quan đòi hỏi, nhận những lợi ích khác có liên quan đến quá trình giải quyết
công việc. Theo quy định của pháp luật, Thẩm phán phải thực hiện nghĩa vụ kê
khai tài sản, thu nhận cá nhân đối với cơ quan có thẩm quyền.
Ba là,
bảo đảm
vô tư, khách quan
trong quá trình giải quyết công việc. Quá trình giải quyết công việc của thẩm
phán là áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Những quy định của pháp luật chỉ mang
tính định hướng chung
và không thể bao phủ hết các phát sinh
trong đời sống xã hội. Do đó, khi áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử của
thẩm phán cần phải khách quan, công tâm và vô tư. Những ý kiến, phát ngôn, bình
luận của thẩm phước, trong và sau phiên tòa xét xử đều có thể ảnh hưởng tới việc
giải quyết công việc của thẩm phán. Do vậy, phát ngôn trước truyền thông khi có
yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền, thẩm phán cần thận trọng và phải phát ngôn
một cách vô tư, khách quan nhất trên cơ sở những chứng cứ, cơ sở pháp lý chắc
chắn.
Bốn là,
sự công bằng, bình đẳng.
Thẩm phán có trách nhiệm bảo đảm sự công bằng, bình đẳng để những người tham gia
tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của họ trong quá trình giải quyết
vụ việc tại Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán không được và
không cho phép các hành vi bất bình đẳng, phân biệt dân tộc, giới tính, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã
hội, hình thức sở hữu và thành phần kinh tế của cá nhân, pháp nhân.
Năm là,
sự
đúng mực.
Trong mọi hoạt
động của mình, Thẩm phán phải hành xử đúng mực, lịch thiệp, thận trọng; duy trì
trật tự và sự tôn nghiêm trong quá trình tố tụng; luôn thể hiện sự kiên nhẫn,
nhân ái đối với các bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác.
Trước, trong hoặc sau
phiên tòa, phiên họp hoặc trong các văn bản tố tụng, Thẩm phán không được đưa ra
những nhận định gây xúc phạm người khác.
Sáu là,
sự
tận tụy và không chậm trễ.
Tận tụy với công việc và
cống hiến hết mình trong việc thực hiện nhiệm vụ tư pháp nhằm giải quyết nhanh
nhất các vụ việc được giao.
Khi giải quyết các vụ việc, Thẩm phán phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của
pháp luật, không để các vụ việc quá hạn luật định vì những nguyên nhân chủ quan.
Quá hạn thời gian xét xử là vi phạm
các quy định của pháp luật về tố tụng.
Bảy là,
năng
lực và sự chuyên cần.
Thẩm phán phải thường xuyên học tập, rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm để nâng cao
kiến thức pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng xét xử, bản lĩnh
nghề nghiệp và khả năng chuyên nghiệp của người Thẩm phán.
Phải
luôn tự cập nhật thông tin
để nắm bắt đầy đủ, kịp thời, sâu sắc về sự phát triển của pháp luật, các vấn đề
quan trọng của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội trong
nước và quốc tế, hỗ trợ cho việc áp dụng pháp luật đúng đắn nhất, phù hợp với lẽ
phải.
Tám là,
thẩm
phán có trách nhiệm trung thành với Tổ quốc, gương mẫu chấp hành Hiến pháp và
pháp luật; tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; độc lập, vô tư,
khách quan, bảo vệ công lý trong xét xử;... Tóm lại, nội dung cơ bản của đạo đức
thẩm phán bao gồm các chuẩn mực đạo đức chung của cán bộ, công chức và đạo đức
nghề nghiệp xét xử, được thể hiện ở một số khía cạnh chính: thượng tôn
pháp luật, tôn trọng khách quan, xét xử độc lập, tận tụy phục vụ và
tôn trọng nhân dân, học và tự học suốt đời.
2. Thực trạng đạo đức thẩm phán giai đoạn vừa qua
Bên cạnh những kết quả đạt được, Có thể nói, đội ngũ Thẩm phán ở nước ta hiện
nay đều là đảng viên, được giáo dục chính trị, tư tưởng kỹ càng, có phẩm chất
đạo đức, bản lĩnh chính trị, được đào tạo cơ bản, có kỹ năng xét xử các loại vụ
án, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công tác xét xử trong thời kỳ cải cách Nhà
nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng.
Tuy nhiên, công tác xét xử của toàn án nhân dân các cấp vẫn còn một số hạn chế,
một số ít Thẩm phán không có bản lĩnh, không giữ được phẩm chất, đạo đức nghề
nghiệp, quá trình giải quyết các vụ án có hành vi nhũng nhiễu, biểu hiện tham
nhũng khi tiếp xúc với nhân dâncán bộ toàn án sa sút về phẩm chất, đạo đức, lối
sống, bản lĩnh chính trị chưa vững vàng… việc thực hiện nhiệm vụ chính trị chưa
đáp ứng được kỳ vọng, vẫn còn tình trạng chậm xét xử, xét xử chưa đúng người,
đúng tội, bỏ lọt tội phạm…dẫn đến suy giảm lòng tin của nhân dân thậm chí gây
bức xúc trong dư luận.
Qua phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng, hiện tượng “Thẩm
phán vòi tiền ăn nhậu, nhận hối lộ của đương sự”; “Bắt
thẩm phán nhận 50 triệu “chạy án”; “Phó
chánh án nhận hối lộ bị đề nghị 18-24 tháng tù” ; “Thẩm
phán phong tình và tham tiền”… không còn là chuyện quá bất ngờ đối với xã
hội. Trong nhiệm kỳ 2011-2016 ngành Tòa án nhân dân đã có 205 cán bộ, công chức
bị xử lý kỷ luật, trong đó có 33 trường hợp đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nhiệm kỳ 2016-2021 có hàng trăm thẩm phán bị xử lý kỷ luật, không bổ nhiệm lại …
Vẫn còn hiện tượng Thẩm phán dùng quyền lực và trình độ pháp luật của mình để
vòi vĩnh, trục lợi từ các bên liên quan, bẻ cong pháp luật thì hậu quả khôn
lường nhưng rất khó để đấu tranh phát hiện, ngăn chặn, xử lý sai phạm của Thẩm
phán. Điều này thể hiện ở nhiều bản án oan, sai, gây hậu quả xấu cho xã hội.
Việc nhiều thẩm phán chưa rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, lỗi sống dễ buông thả và
bị nền kinh tế thị trường chi phối hoặc không đứng vững trước cám dỗ của đồng
tiền hiện nay không phải là ít.
Nhìn thẳng vào một số hạn chế, thiếu sót Tòa án Nhân dân tối cao đã thẳng thắn
chỉ ra những hạn chế, thiếu sót trong công tác xét xử để kịp thời đề ra giải
pháp khắc phục. Một số hạn chế, thiếu sót có thể kể đến như: Thẩm phán chưa xác
định hoặc xác định không đúng tư cách người tham gia tố tụng; tài liệu, hồ sơ vụ
án còn chưa đầy đủ, thiếu chứng cứ, xét xử chưa khách quan; vấn đề định giá tài
sản liên quan đến vụ án; xác định nhân thân để làm tình tiết tăng nặng hoặc giảm
nhẹ còn chủ quan; một số khâu trong quá trình tố tụng như trả hồ sơ điều tra bổ
sung…
Đây là một số hạn chế của đội ngũ thẩm phán ở Việt Nam thời gian vừa qua. Nguyên
nhân xuất phát từ những hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, từ sự tác động của cơ
chế thị trường khiến một số thẩm phán bản lĩnh chính trị chưa vững vàng, đạo đức
chưa thực sự trong sáng, vẫn bị lợi ích vật chất chi phối… và một số nguyên nhân
khách quan khác.
3. Một số giải pháp nâng cao đạo đức
cho
đội ngũ thẩm phán đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị hiện nay
Giải pháp về giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ thẩm phán
Đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ:
Mỗi Chi bộ là hạt nhân, là tế bào cơ sở của tổ chức đảng“Chi
bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”.
Do vậy, trước tiên đổi mới nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, thiết thực hơn,
hiệu quả hơn. Đổi mới cả nội dung lẫn hình thức sinh hoạt nhằm nâng cao giáo dục
đạo đức, tư tưởng chính trị cho mỗi đảng viên của chi bộ tòa án nhân dân.
Đẩy mạnh học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh:
Cần gắn việc học tập này với phong trào thi đua “Nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ thẩm phán, cán
bộ, công chức tòa án nhân dân” do Tòa án Nhân dân tối cao phát động. Nội
dung học tập phải cụ thể bằng kết quả quá trình làm việc của mỗi thẩm phán.
Giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ
Một là, hoàn thiện thể chế, quy định:
bên cạnh những quy định của Hiến pháp, Luật và các văn bản quy phạm khác, Tòa án
Nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 01/2017/CT-CA, ngày 16-01-2017, của
Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, “Về việc triển khai tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2017 của các tòa án nhân dân” và Hướng
dẫn số 136/HD-TANDTC, ngày 30-3-2017, về “Công tác tổ chức phiên tòa rút
kinh nghiệm theo yêu cầu cải cách tư pháp”; Nghị quyết số 03/HĐTP, ngày
16-3-2017, “Về việc công bố bản án, quyết định của tòa án trên Cổng thông tin
điện tử của tòa án”; Quyết định số 120/QĐ-TANDTC, ngày 19-6-2017, về “Ban
hành Quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong tòa án nhân
dân”; Quyết định số 346a/2017/QĐ-TANDTC, ngày 01-3-2017, về “Ban hành
Quy chế công tác kiểm tra trong tòa án nhân dân”…
Quyết định số 120/QĐ-TANDTC, ngày 19-6-2017, của Chánh án Tòa án Nhân dân tối
cao, quy định xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong tòa án là một
giải pháp mạnh mẽ nhằm nâng cao năng lực và đạo đức đối với thẩm phán, thẩm tra
viên và thư ký trong công tác. Đây là những quyết định, giải pháp mới, lần đầu
tiên được ban hành và thực hiện trong hệ thống tòa án nhân dân. Cùng với đó,
việc rút kinh nghiệm sau phiên xét xử cũng là một trong những giải pháp hiệu quả
có ý nghĩa đối với thẩm phán ngay sau phiên xét xử.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra:
công tác thanh tra, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ là cần thiết vừa để kiểm
soát quyền lực, vừa để duy trì tính nghiêm minh trong hoạt động xét xử. Không có
thanh tra kiểm tra, không có quản lý, dó đó các cấp tòa án cần phối hợp thanh
tra, kiểm tra thường xuyên, đột xuất, giữa kiểm tra chéo với kiểm tra cấp dưới
nhằm tăng cường kỷ cương, kỷ luật công tác. Đồng thời, kết hợp khen thưởng và kỷ
luật khi kiểm tra. Sau kiểm tra cần có tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm chung
và hoạt động hậu kiểm.
Giải pháp về tổ chức - đào tạo, bổ nhiệm
Tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán:
Mở rộng nguồn thi tuyển chọn thẩm phán một cách công khai, minh bạch, tìm đúng
người giỏi, người tài, người có đạo đức, phẩm chất, tiêu chuẩn, điều kiện bổ
nhiệm thẩm phán theo quy định của Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2014. Khi
tuyển dụng, bổ nhiệm thẩm phán phải có kế hoạch cụ thể, công khai rộng rãi để
nhiều ứng viên tham gia, có nhiều sự lựa chọn người giỏi.
Đào tạo, bồi dưỡng thẩm phán:
Sau khi tuyển dụng được người giỏi cần có quá trình đào tạo bài bản, chương
trình phù hợp, phương thức đào tạo, bồi dưỡng có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu
chuyên môn, nghiệp vụ, ngạch, bậc của từng người. Đào tạo, bồi dưỡng nhiều
chuyên môn, lĩnh vực, bài bản về lý thuyết, gắn với thực tiễn, rèn luyện nhiều
về kỹ năng, nghiệp vụ.
Giải pháp về thi đua - khen thưởng
Khen thưởng kịp thời, tôn vinh đúng người. Đổi mới, quy chế khen thưởng thẩm
phán phù hợp với điều kiện thực tiễn. Hiện nay số lượng các vụ án lớn, tính chất
phức tạp, số lượng bị can, bị cáo đông… không chỉ gây khó khăn cho quá trình
điều tra của các cơ quan có thẩm quyền, mà còn khó khăn cho quá trình xét xử của
thẩm phán. Việc có những thiếu xót là khó tránh khỏi. Do đó, quy chế khen thưởng
cần có những quy định cho người làm ở những ngành nghề đặc thù trong đó có thẩm
phán tòa án nhân dân. Khen thưởng kịp thời sẽ tạo động lực cho thẩm phán tiếp
tục rèn luyện, phấn đấu đồng thời cũng nêu gương cho đội ngũ thẩm phán.
Xử lý nghiêm các vi phạm:
Đối với thẩm phán mà vi phạm các quy định của pháp luật mà có tính chất cố ý thì
cần có hình thức xử lý kịp thời, đúng người, đúng vi phạm tạo tính răn đe cho
đội ngũ thẩm phán nhằm bảo vệ nghiêm tinh thần thượng tôn pháp luật.
Trên đây là những nhóm giải pháp góp phần nâng cao đạo đức, trách nhiệm của
người thẩm phán tòa án nhân dân. Phát huy truyền thống gần 80 năm xây dựng và
phát triển tòa án nhân dân, đội ngũ thẩm phán là lòng cốt sẽ tiếp tục chặng
đường vẻ vang mà các thế hệ đi trước đã để lại, rèn luyện, học tập phẩm chất,
đạo đức, phong cách theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếp tục phấn đấu viết
tiếp trang sử hào hùng vào quá trình phát triển tòa án nhân dân, góp phần xây
dựng và bảo vệ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam hùng cường, sánh vai cùng cường quốc năm châu như di nguyện của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.