Chuyên đề yêu cầu áp dụng pháp luật về chia tài sản khi ly hôn
ThS. NCS.
Nguyễn Hữu Hoàng
Đặt
vấn đề
Phân
chia tài sản khi ly hôn là một quy
trình quan trọng bắt buộc cả hai bên
vợ, chồng phải thực hiện theo quy định
của pháp luật. Quan
hệ tài sản giữa vợ, chồng là
quan hệ tài sản gắn liền với
nhân thân, tồn tại trong thời kỳ
hôn nhân, không có tính đền
bù ngang giá và không xác định
được công sức đóng góp
cụ thể của các bên nên khi xảy
ra tranh chấp thì việc phân chia tài
sản chung vợ, chồng là tương đối
khó khăn, phức tạp, gây nhiều
tranh cãi trong các vụ giải quyết ly
hôn tại các cấp Tòa án. Chính
vì vậy, cần phải có một số
các yêu cầu trong áp dụng pháp
luật về chia tài sản khi ly hôn.
1.
Hoàn thiện chính sách pháp luật
Hoàn
thiện chính sách, pháp luật liên
quan đến tư pháp, bảo đảm tôn
trọng và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế
phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi
hành vi can thiệp trái pháp luật vào
hoạt động tư pháp nói chung,
hoạt động giải quyết các vụ
án hôn nhân gia đình nói riêng;
bảo đảm tính độc lập của
tòa án theo thẩm quyền xét xử,
thẩm phán, hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Xây
dựng chế định tố tụng tư pháp
lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng
là đột phá; bảo đảm tố
tụng tư pháp dân chủ, công bằng,
văn minh, pháp quyền, hiện đại,
nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm
và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Áp dụng hiệu quả thủ
tục tố tụng tư pháp rút gọn;
kết hợp các phương thức phi tố
tụng tư pháp với các phương
thức tố tụng tư pháp.
Đảm
bảo và thực hiện thành công chế
định tố tụng tư pháp lấy xét
xử là trung tâm, tranh tụng là đột
phá cần thực hiện đồng bộ
nhiều công việc từ hoàn thiện
pháp luật; hoàn thiện mô hình
hoạt động của Tòa án; đảm
bảo hoạt động xét xử độc
lập Tòa án; đảm bảo vai trò
trung tâm của Tòa án trong chuỗi hoạt
động tố tụng, Tư pháp; bảo
đảm các điều kiện để
hoạt động tranh tụng được phát
huy; đề cao vai trò, vị trí của
Luật sư; nâng cao chất lượng, đạo
đức của nhân lực ngành Tư
pháp,…
Để
hoạt động tranh tụng đi vào thực
chất, tạo sự đột phá có lẽ
chúng ta cũng cần phải thay đổi
một số thói quen như tâm lý
“trọng chứng hơn trọng cung”. Theo
quy định của pháp luật lời khai,
lời trình bày của bị can, bị
cáo tại giai đoạn điều tra, truy
tố (được ghi vào Biên bản
hỏi cung, Biên bản lấy lời khai…)
hay lời trình bày tại phiên tòa
(được ghi vào Biên bản phiên
tòa…) đều là chứng cứ và
có giá trị chứng minh. Nhưng thực
tế, khi giải quyết các chủ thể
trong đó có cả Luật sư thường
coi trọng và đánh giá cao hơn
giá trị của các tài liệu đọc
được như Biên bản ghi lời
khai, Biên bản hỏi cung... Lời khai, lời
trình bày trực tiếp của bị cáo,
nhân chứng, đương sự tại phiên
tòa đôi khi bị đánh giá
thấp hơn. Trong khi đó, bản chất
tất cả các tài liệu này đều
xuất phát từ chính lời trình
bày của bị can, bị cáo, nhân
chứng, đương sự trong vụ án.
Thậm chí theo logic chung việc một người
trực tiếp bày sự việc, trực tiếp
nêu quan điểm, ý kiến của chính
của họ tại phiên tòa sẽ chính
xác, trung thực đúng với ý chí
của họ hơn so với việc ý kiến,
quan điểm, lời trình bày của họ
được thể hiện gián tiếp qua
trung gian, được người khác ghi
nhận lại vào văn bản. Tại phiên
tòa, cùng việc trực tiếp lắng
nghe lời trình bày bằng lời, Hội
đồng xét xử còn được
quan sát, đánh giá tính chính
xác trong thông tin được cung cấp
qua các biểu cảm của người trình
bày như nét mặt, cử chỉ, thái
độ, ngữ điệu, chất giọng...
từ đó đánh giá tính trung
thực trong dữ liệu thông tin.
2.
Ðổi mới và nâng cao hiệu quả
cơ chế Nhân dân tham gia xét xử
tại tòa án
Ðổi
mới và nâng cao hiệu quả cơ chế
Nhân dân tham gia xét xử tại tòa
án. Tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu hoàn thiện quy định pháp
luật về khởi kiện vụ án dân
sự trong trường hợp chủ thể các
quyền dân sự là nhóm dễ bị
tổn thương hoặc trường hợp
liên quan đến lợi ích công nhưng
không có người đứng ra khởi
kiện.
Nhân
dân tham gia vào hoạt động quản
lý của nhà nước nói chung, hoạt
động tư pháp nói riêng là
đặc tính của các nhà nước
dân chủ, tiến bộ. Ở nước ta,
bản chất dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của tòa án không
chỉ thể hiện ở việc các công
chức tư pháp tận tụy, hết lòng,
hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân, mà còn thể hiện
ở việc huy động quần chúng nhân
dân tham gia vào hoạt động xét
xử, góp phần thực thi và bảo vệ
công lý.
Bằng
kinh nghiệm, hiểu biết và kiến thức
của mình, hội thẩm mang đến phiên
tòa những quan niệm đạo đức
chung của xã hội, sự nhận xét,
đánh giá của nhân dân về
hành vi phạm tội, tính chất của
các tranh chấp theo lẽ phải và công
bằng... Sự tham gia của hội thẩm góp
phần quan trọng vào việc xác định
sự thật khách quan của vụ án,
tăng thêm niềm tin cá nhân của
thẩm phán vào việc đưa ra phán
quyết giải quyết vụ án “thấu
tình”, “đạt lý”, công
bằng, khách quan, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp,
chính đáng của cá nhân, tổ
chức, góp phần tạo sự đồng
thuận trong xã hội. Bên cạnh đó,
việc tham gia xét xử của hội thẩm
còn làm cho các phiên tòa tranh
tụng chất lượng hơn; thông qua
phiên tòa người dân biết và
hiểu được các quy định của
pháp luật, quy tắc của cuộc sống,
từ đó, có ý thức chấp
hành pháp luật, tôn trọng quy tắc
và đạo đức xã hội, nâng
cao ý thức đấu tranh phòng, chống
tội phạm và các vi phạm pháp
luật khác. Tuy nhiên, hoạt động
tư pháp thời gian qua cho thấy, các
quy định của pháp luật hiện hành
về cơ chế lựa chọn, vị trí,
vai trò, thẩm quyền, tổ chức hoạt
động của hội thẩm bộc lộ
những hạn chế, bất cập nhất định,
chưa theo kịp yêu cầu ngày càng
cao của thực tiễn phát triển đất
nước.
3.
Hoàn thiện
cơ chế để khắc phục tình
trạng quan hệ giữa các cấp tòa
án là quan hệ hành chính, bảo
đảm độc lập giữa các cấp
xét xử và độc lập của thẩm
phán, hội thẩm khi xét xử
-
Hoàn thiện cơ chế để khắc
phục tình trạng quan hệ giữa các
cấp tòa án là quan hệ hành
chính, bảo đảm độc lập giữa
các cấp xét xử và độc lập
của thẩm phán, hội thẩm khi xét
xử. Phân định rõ nhiệm vụ
xét xử sơ thẩm, xét xử phúc
thẩm, xét lại bản án, quyết
định theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm; xây dựng tòa án
điện tử.
Xác
định thẩm quyền của tòa án
để thực hiện đầy đủ,
đúng đắn quyền tư pháp; mở
rộng thẩm quyền của tòa án
trong xét xử các vi phạm hành chính,
quyết định một số vấn đề
liên quan đến quyền con người,
quyền công dân. Nghiên cứu làm
rõ thẩm quyền hội đồng xét
xử khởi tố vụ án tại phiên
tòa, những trường hợp tòa án
thu thập chứng cứ trong hoạt động
xét xử.
Đổi
mới Tòa án nhân dân cấp tỉnh
thành Toà án nhân dân phúc
thẩm, Tòa án nhân dân cấp huyện
thành Tòa án nhân dân sơ thẩm
nhằm thể chế hóa nhiệm vụ “bảo
đảm tính độc lập của Tòa
án theo thẩm quyền xét xử” được
đề ra tại Nghị quyết số 27-NQ/TW.
Phù hợp với truyền thống tư pháp
nước nhà khi Chủ tịch Hồ Chí
Minh quyết định thành lập các
Tòa án của nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, phù hợp
với quy định của Hiến pháp “Tòa
án là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”.
Thành
lập Tòa án nhân dân sơ thẩm
chuyên biệt là thực hiện Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của đảng “xây
dựng Tòa án chuyên nghiệp”.
Các Tòa án nhân dân sơ
thẩm chuyên biệt được thành
lập sẽ bảo đảm tính chuyên
nghiệp trong tổ chức và hoạt động;
phát huy trình độ chuyên môn cao
của Thẩm phán, Hội thẩm trong xét
xử các vụ án đặc thù, từ
đó nâng cao chất lượng, hiệu
quả giải quyết loại việc này.
4.
Hoàn thiện thể chế để viện
kiểm sát nhân dân thực hiện tốt
chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư
pháp
Hoàn
thiện thể chế để viện kiểm
sát nhân dân thực hiện tốt chức
năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp;
hoàn thiện cơ chế tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, tăng cường kiểm soát
bên trong việc thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động xét
xử phù hợp với nguyên tắc thẩm
phán, hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo.
Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao cần
khẩn trương xây dựng chương
trình, kế hoạch để triển khai
thực hiện kịp thời, hiệu quả các
nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết
số 27-NQ/TW về "Tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong giai đoạn mới”; trong đó có
nhiệm vụ “Hoàn thiện thể chế
để Viện Kiểm sát nhân dân
thực hiện tốt chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp; hoàn thiện cơ
chế tăng cường trách nhiệm công
tố trong hoạt động điều tra, tăng
cường kiểm soát việc thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt
động xét xử phù hợp với
nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật".
Đi
liền với đó là tăng cường
hơn nữa vai trò, trách nhiệm công
tố, gắn công tố với hoạt động
điều tra ngay từ giai đoạn đầu
tiên của tố tụng hình sự, thực
hiện tốt các nguyên tắc tố tụng
trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ
như nguyên tắc suy đoán vô tội,
đảm bảo chặt chẽ, trọng chứng
hơn trọng cung; không để oan sai, bỏ
lọt tội phạm; vừa đảm bảo xử
lý nghiêm đối tượng chủ mưu,
vụ lợi, đồng thời đảm bảo
tính nhân văn, thuyết phục.
Trong
quá trình thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư
pháp cần phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan tố tụng để đẩy
nhanh tiến độ điều tra, truy tố,
xét xử, xử lý nghiêm các vụ
án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực,
nhất là các vụ án thuộc diện
Ban chỉ đạo Trung ương về phòng,
chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi,
chỉ đạo. Cần tăng cường thực
hiện việc thu hồi tài sản của
Nhà nước bị chiếm đoạt,
thiệt hại, thất thoát; hạn chế
tối đa việc hình sự hóa những
quan hệ dân sự, kinh tế; góp phần
xây dựng hành lang pháp lý thông
thoáng, đổi mới, sáng tạo nhằm
tạo điều kiện cho sự phát triển
kinh tế - xã hội.
Ngành
Kiểm sát nhân dân cũng cần tiếp
tục chủ động phối hợp chặt
chẽ, hiệu quả với chính phủ, Bộ
Công an, Tòa án nhân dân tối
cao, Văn phòng Chủ tịch nước trong
nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu trình
Chủ tịch nước xem xét, quyết định
về đặc xá; xét đơn xin ân
giảm án tử hình; hạn chế đến
mức thấp nhất tình trạng tồn
đọng hồ sơ xin ân giảm án tử
hình hiện nay. Đây là những việc
có ý nghĩa nhân đạo sâu sắc
mà Hiến pháp và pháp luật đã
quy định, cần quan tâm thực hiện
cho tốt.
5.
Hoàn thiện thể chế về luật sư
và hành nghề luật sư, bảo đảm
để luật sư thực hiện tốt
quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy
định của pháp luật
Hoàn
thiện thể chế về luật sư và
hành nghề luật sư, bảo đảm
để luật sư thực hiện tốt
quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy
định của pháp luật. Nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước
và trách nhiệm tự quản của tổ
chức xã hội-nghề nghiệp đối
với luật sư, tăng cường kỷ
luật, kỷ cương trong hoạt động
hành nghề luật sư.
Tăng
cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng và phát triển
đội ngũ luật sư có bản lĩnh
chính trị vững vàng, đạo đức
nghề nghiệp trong sáng, am hiểu pháp
luật, giỏi về kỹ năng hành nghề
và ngoại ngữ, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp và hội
nhập quốc tế. Củng cố hội luật
gia các cấp, nâng cao vai trò, trách
nhiệm của thành viên hội luật
gia trong thực hiện nhiệm vụ đúng
quy định pháp luật.
Nâng
cao vai trò, tính chuyên nghiệp và
chất lượng trợ giúp pháp lý,
nhất là trong hoạt động tố tụng
tư pháp; hiện đại hóa, tăng
cường ứng dụng công nghệ thông
tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý;
mở rộng đối tượng được
trợ giúp pháp lý phù hợp với
điều kiện của đất nước.
Hoàn
thiện thể chế pháp lý quản lý
Luật sư và hành nghề Luật sư
đòi hỏi hoàn thiện hệ thống
pháp luật điều chỉnh Luật sư
và hành nghề Luật sư. Hệ thống
này bao gồm các quy phạm, chế định
pháp luật chuyên ngành về Luật
sư và hệ thống quy phạm, chế định
pháp luật tố tụng tư pháp, hành
chính - tư pháp liên quan đến
Luật sư và hành nghề Luật sư.
Cần xây dựng mới Luật Luật sư
thay thế cho Luật Luật sư 2006 (được
sửa đổi bổ sung năm 2012). Bởi lẽ
Luật Luật sư hiện hành được
ban hành trước khi Hiến pháp năm
2013 và các đạo luật cơ bản
điều chỉnh các quan hệ pháp luật
liên quan đến hành nghề Luật sư
được ban hành nên một số quy
định của Luật Luật sư chưa kịp
thời đồng bộ, tương thích,
phù hợp với những quy định của
pháp luật có liên quan.
Thứ
nhất, Luật Luật sư mới cần xác
định đúng địa vị pháp
lý, vị trí, vai trò của Luật
sư, xác định khái niệm Luật
sư là chức danh tư pháp độc
lập, chức danh bổ trợ tư pháp
trong hệ thống chức danh nghề luật Việt
Nam. Định vị đúng vị trí
pháp lý của Luật sư, xác định
rõ mối quan hệ của Luật sư với
các chủ thể khác trong hệ thống
các chức danh tư pháp. Luật cần
quy định rõ ràng, minh bạch quy trình
trở thành Luật sư. Do Luật sư là
chức danh tư pháp độc lập, bình
đẳng với các chức danh tư pháp
khác như thẩm phán, kiểm sát
viên, điều tra viên nên việc gia
nhập đội ngũ hành nghề Luật
sư của các ứng viên dù được
đào tạo ở đâu, tập sự
ở cơ sở hành nghề nào đều
phải vượt qua kỳ thi tuyển chọn tư
pháp quốc gia mới được công
nhận.
Xuất
phát từ tính chất của nghề Luật
sư, phải được đào tạo
bài bản trước khi được cấp
chứng chỉ hành nghề, nhằm bảo
đảm chất lượng dịch vụ pháp
lý cho khách hàng, Nhà nước và
xã hội, Luật Luật sư cần quy định
chặt chẽ để hạn chế tối đa
các trường hợp được miễn
đào tạo, giảm thời gian tập sự
hành nghề.
Đối
với các trường hợp được
miễn đào tạo, miễn tập sự
hành nghề, ứng viên muốn hành
nghề Luật sư phải trải qua khóa
bồi dưỡng ngắn hạn về kỹ
năng và đạo đức ứng xử
nghề nghiệp Luật sư là một điều
kiện để được cấp chứng
chỉ hành nghề Luật sư.
Thứ
hai, Luật Luật sư cần quy định rõ
về phạm vi và hình thức hành
nghề Luật sư để bảo đảm
đặc thù nghề nghiệp Luật sư
và tương thích với Luật Doanh
nghiệp trong bảo đảm quyền kinh doanh
của công dân liên quan đến các
thủ tục pháp lý nhưng không phải
là Luật sư, không hành nghề Luật
sư. Cần làm rõ những vấn đề
gì mang tính đặc thù của nghề
Luật sư thì quy định trong Luật
Luật sư, những vấn đề khác
liên quan đến hành nghề Luật sư
nên áp dụng luật chung là Luật
Doanh nghiệp.
Thứ
ba, nguyên tắc kết hợp quản lý
Nhà nước với vai trò tự quản
của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của Luật sư do Luật Luật sư năm
2006 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2012) cần được sửa đổi,
bổ sung, thay thế. Nguyên tắc này chưa
phân định rõ ràng và có
những điểm bất hợp lý về
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan
quản lý Nhà nước và của
tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
Luật sư trong việc quản lý Luật
sư và hành nghề Luật sư, dẫn
đến việc quy định chi tiết thi hành
và trong thực tiễn thi hành gặp khó
khăn vừa tạo ra khoảng trống pháp
lý trong quản lý, hạn chế quyền
khiếu kiện các hành vi, quyết định
hành chính xâm phạm quyền tiếp
cận nghề nghiệp, trở thành Luật
sư và hành nghề Luật sư của
công dân và của Luật sư. Luật
Luật sư cần quy định rõ ràng
hai nguyên tắc: nguyên tắc quản lý
Nhà nước về Luật sư và hành
nghề Luật sư áp dụng đối với
hoạt động quản lý Nhà nước
về Luật sư và nguyên tắc tự
quản của Luật sư áp dụng trong
hoạt động nghiệp vụ chuyên môn
trong nội bộ tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của Luật sư và tổ
chức hành nghề Luật sư.
Thứ
tư, Luật Luật sư cần tách bạch
chức năng quản lý Nhà nước,
thẩm quyền áp dụng pháp luật và
xử lý hành vi vi phạm pháp luật
về Luật sư với chức năng tự
quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của Luật sư. Xác định
hệ thống chế tài pháp lý, xử
lý vi phạm pháp luật và giao cơ
quan có thẩm quyền trong quản lý Nhà
nước áp dụng đối với Luật
sư trong Luật Luật sư và văn bản
hướng dẫn thi hành. Trong trường
hợp Luật sư vi phạm pháp luật,
tùy theo tính chất, mức độ sẽ
bị các cơ quan quản lý Nhà nước
xử lý hành chính (cảnh cáo,
phạt tiền, tước quyền sử dụng/thu
hồi chứng chỉ hành nghề Luật sư
có thời hạn/không thời hạn).
Luật sư sẽ có quyền để khiếu
nại hoặc khởi kiện theo quy định
của Luật Khiếu nại và Luật Tố
tụng hành chính.
Luật
Luật sư cần trao quyền cho tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của Luật sư
ban hành và áp dụng hình thức
kỷ luật đối với Luật sư. Các
hình thức kỷ luật Luật sư bao
gồm: khiển trách, cảnh cáo, tạm
đình chỉ tư cách Luật sư có
thời hạn, không thời hạn và xóa
tên Luật sư trong danh sách Đoàn
Luật sư. Trong trường hợp bị xử
lý kỷ luật, Luật sư được
quyền khiếu nại, việc giải quyết
khiếu nại được quy định trong
điều lệ hoặc quy chế nội bộ
của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
của Luật sư. Quyết định giải
quyết của Chủ tịch Hội đồng
Luật sư toàn quốc là quyết định
cuối cùng. Thứ năm, Luật Luật sư
cần quy định về hành nghề của
tổ chức Luật sư nước ngoài
cho đồng bộ, tương thích với
pháp luật về Luật sư và hành
nghề Luật sư Việt Nam. Ngoài các
quy định trong Chương VI về hành
nghề của tổ chức hành nghề Luật
sư nước ngoài, Luật sư nước
ngoài tại Việt Nam, thì tổ chức
hành nghề Luật sư nước ngoài,
Luật sư nước ngoài hành nghề
ở Việt Nam phải tuân theo các quy định
của Luật Luật sư Việt Nam giống
như các Luật sư Việt Nam, khi vi phạm
pháp luật Luật sư, pháp luật
Việt Nam hay vi phạm kỷ luật của Luật
sư theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
Thứ
sáu, Luật Luật sư đã quy định
tại Điều 91 về việc xử lý
vi phạm đối với các hành vi xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của Luật sư, tổ chức hành nghề
Luật sư, tuy nhiên cho đến nay chưa
có cơ chế pháp lý để thực
thi, bởi lẽ các hành vi xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của
Luật sư, tổ chức hành nghề Luật
sư chưa được quy định chế
tài cụ thể để có cơ sở
áp dụng. Ví dụ hành vi cản trở
hoạt động hành nghề Luật sư:
điều tra viên, thủ trưởng cơ
quan điều tra chậm trễ, không cấp
đăng ký người bào chữa cho
bị can, bị cáo; tác động đến
tinh thần, đe dọa để bị can, bị
cáo viết giấy từ chối Luật sư
trái với mong muốn của họ dẫn
đến oan, sai, gây hậu quả nghiêm
trọng…, nhưng đến nay chưa có
trường hợp nào bị hình sự
hóa, thậm chí chưa bị hành
chính hóa và chưa có cơ chế
để xử lý kỷ luật đối
với hành vi của cán bộ tiến
hành tố tụng vi phạm, cản trở
hoạt động hành nghề hợp pháp
của Luật sư. Luật Luật sư cần
giao Chính phủ quy định cụ thể hệ
thống chế tài hành chính để
xử lý hành vi vi phạm cản trở
hoạt động hành nghề của Luật
sư; hoàn thiện hệ thống chế tài
hình sự xử lý hành vi cản trở
gây hậu quả nghiêm trọng đối
với hoạt động hành nghề của
Luật sư.
Thứ
bảy, cần sửa đổi, bổ sung các
luật có liên quan đến hành nghề
Luật sư, trước hết là các
luật về tố tụng để bảo đảm
cho Luật sư tham gia tố tụng trong vụ án
với tư cách là người bào
chữa, người bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự.
Do đặc thù nghề nghiệp, cần xác
định Luật sư không phải là
chủ thể của tội phạm và được
miễn truy tố đối với tội không
tố giác tội phạm trong Bộ luật
Hình sự. Nếu tố giác khách
hàng, Luật sư sẽ không hoàn
thành nhiệm vụ bào chữa, bảo vệ
tốt nhất quyền, lợi ích của
khách hàng, trái với đạo lý.
Đương nhiên khi Luật sư thực
hiện nghĩa vụ tố giác sẽ bị
khách hàng tẩy chay. Trong khi về pháp
lý, trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các cơ quan, người tiến
hành tố tụng. Luật sư chỉ có
nghĩa vụ tố giác khi khách hàng
đang chuẩn bị thực hiện tội phạm,
để ngăn ngừa đối với các
tội xâm phạm an ninh quốc gia, khủng
bố, xâm phạm lợi ích công cộng.
Lúc này Luật sư có quyền từ
chối yêu cầu cung cấp dịch vụ
pháp lý của khách khàng và
thực hiện trách nhiệm công dân.
Cần sửa đổi Luật Doanh nghiệp theo
hướng xác định dịch vụ pháp
lý của Luật sư trong phạm vi hành
nghề Luật sư là ngành, nghề hoạt
động, kinh doanh có điều kiện phải
thực hiện theo quy định của pháp
luật chuyên ngành. Trong đó Luật
Doanh nghiệp là luật chung điều chỉnh
các hoạt động của doanh nghiệp
trong tất cả các ngành, nghề kinh
doanh. Luật chuyên ngành trong trường
hợp này là Luật Luật sư điều
chỉnh việc cung cấp dịch vụ pháp
lý cho xã hội. Tuy nhiên cần sửa
đổi quy định tại Điều 4, Điều
22 và các quy định liên quan của
Luật Luật sư nhằm làm rõ hơn
khái niệm “dịch vụ pháp lý”
của Luật sư trong hoạt động hành
nghề Luật sư, xác định rõ
chủ thể thực hiện là Luật
sư và người có đủ điều
thực hiện tư vấn pháp luật, để
tránh hiểu nhầm là bất kỳ doanh
nghiệp, cá nhân nào cũng có thể
thực hiện “dịch vụ pháp lý”,
“hành nghề Luật sư” mà
không cần đáp ứng về tiêu
chuẩn, điều kiện gì.
6.
Phát triển nhân lực tư pháp đủ
số lượng, bảo đảm chất lượng,
có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất
lượng đào tạo nhân lực tư
pháp
Phát
triển nhân lực tư pháp đủ số
lượng, bảo đảm chất lượng,
có cơ cấu hợp lý. Nâng cao chất
lượng đào tạo nhân lực tư
pháp; rà soát, sắp xếp hợp lý
các cơ sở đào tạo cử nhân
luật. Xác định rõ hệ tiêu
chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ,
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo
đức, trách nhiệm nghề nghiệp,
kiến thức pháp luật, kinh tế, xã
hội và kinh nghiệm thực tiễn đối
với từng chức danh, nhân lực tư
pháp.
Xác
định con người là yếu tố
quyết định, công tác cán bộ
là then chốt của then chốt”, cần
tập trung tiếp tục sắp xếp cơ cấu
tổ chức bộ máy theo hướng tinh
gọn, hiệu lực, hiệu quả, phân
công và sử dụng hợp lý biên
chế cán bộ hiện có; tiếp tục
siết chặt kỷ luật, kỷ cương
trong thực thi công vụ để nâng cao
chất lượng hoạt động của
ngành. Tăng cường vai trò, trách
nhiệm nêu gương trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo; tiếp tục
tổ chức, triển khai học tập và
làm tốt.
Mở
rộng nguồn, đẩy mạnh thực hiện
cơ chế thi tuyển để bổ nhiệm
các chức danh tư pháp. Ðổi mới
chính sách, chế độ tiền lương,
thời hạn bổ nhiệm và cơ chế
bảo đảm để đội ngũ cán
bộ tư pháp yên tâm công tác,
liêm chính, công tâm, chuyên nghiệp,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới, nhất là đối
với đội ngũ thẩm phán.
Xét
xử là công việc rất khó khăn,
vất vả bởi đó là quá
trình đi tìm sự thật thường
được che giấu một cách tinh vi và
chuyên nghiệp, cùng với sự xuất
hiện ngày càng nhiều loại tranh chấp,
vi phạm, tội phạm phi truyền thống với
những thủ đoạn mới chưa từng
có. Với trọng trách của người
bảo vệ và thực thi công lý,
thẩm phán thường xuyên phải đối
mặt với thách thức, tiêu cực
trong xã hội, rủi ro, nguy hiểm, thậm
chí là không ít cám dỗ, mua
chuộc vì mỗi phán quyết của
thẩm phán tác động trực tiếp
đến tự do, danh dự, nhân phẩm, tài
sản và cả tính mạng con người.
Nếu không rèn cho mình bản lĩnh
vững vàng, sự liêm chính, trong sạch,
thẳng thắn, trung thực, vô tư, khách
quan thì thẩm phán sẽ không thể
hoàn thành được trọng trách
của mình.