Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam
ThS. Đinh
thị Thu Hương
1.
Khái niệm, đặc điểm, ý
nghĩa, cơ sở pháp lý giải
quyết tranh chấp chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn
1.1.
Khái niệm tài sản chung của vợ
chồng
Trong
quá trình vợ chồng chung sống, ngoài
tình cảm thì giữa vợ chồng còn
cần có tài sản chung, tài sản
chung được coi là một điều
kiện không thể thiếu để duy trì
mối quan hệ vợ, chồng. Tài sản
theo nghĩa Từ điển tiếng việt là
của cải, vật chất dùng vào mục
đích sản xuất và tiêu dùng,
theo quy định tại Bộ luật Dân sự
năm 2015 thì “Tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản” (Điều
105).
Tài
sản chung của vợ chồng là tài
sản thuộc sở hữu chung vợ chồng,
là hình thức sở hữu chung đặc
biệt. Xuất phát từ quan hệ hôn
nhân, sự tồn tại của chế độ
tài sản chung vợ chồng phụ thuộc
vào sự tồn tại của quan hệ hôn
nhân và chấm dứt khi một trong hai vợ
chồng chết hoặc có bản án,
quyết định của Tòa án cho vợ
chồng ly hôn. Tài sản chung của vợ
chồng là tài sản do vợ, chồng
tạo ra do lao động, hoạt động sản
xuất kinh doanh và những thu nhập hợp
pháp khác của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ
chồng được thừa kế chung, tặng
cho chung và những tài sản vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung, quyền
sử dụng đất của vợ, chồng có
được sau khi kết hôn là tài
sản chung của vợ chồng. Khác với
tài sản chung đơn thuần, tài sản
chung vợ, chồng có nguồn gốc tạo
ra từ thời kỳ hôn nhân, có thể
là do vợ, chồng lao động tạo ra
hoặc từ những hành vi pháp lý
diễn ra trong thời kỳ hôn nhân (thỏa
thuận tài sản riêng trở thành
tài sản chung, thừa kế, tặng cho).
Từ
xưa đến nay, cha ông ta vẫn nói
“Của chồng công vợ”, tài
sản chung của vợ chồng không nhất
thiết do hai vợ, chồng trực tiếp tạo
ra hoặc tạo ra ngang bằng nhau. Tài sản
chung có thể chỉ do vợ, chồng tạo
ra trong thời kỳ hôn nhân, quy định
này thể hiện sự gắn kết “Như
hai mà một” của quan hệ hôn nhân
Đây là điểm khác biệt của
tài sản chung vợ chồng so với các
tài sản chung theo phần khác. Tài
sản chung vợ, chồng là tài sản
thuộc sở hữu chung hợp nhất, khi vợ,
chồng chưa phân chia tài sản thì
không xác định được tỷ
lệ tài sản của mỗi người.
Khi
hai bên thỏa thuận phân chia xong hoặc
có quyết định phân chia của Tòa
án thì phần tài sản của vợ,
chồng trong khối tài sản chung mới
được xác định. Đây là
điểm khác biệt đặc trưng của
tài sản chung vợ, chồng so với các
tài sản chung theo phần. Vợ, chồng có
quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản
chung. Tài sản chung vợ chồng có thể
phân chia theo thoả thuận hoặc theo quyết
định của Toà án.
Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã
quy định cụ thể các căn cứ
xác lập tài sản chung vợ chồng
như sau: 1. Tài sản chung của vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra,
thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng và thu nhập
hợp pháp khác trong thời kỳ hôn
nhân, trừ trường hợp được
quy định tại khoản 1 Điều 40 của
Luật này; tài sản mà vợ chồng
được thừa kế chung hoặc được
tặng cho chung và tài sản khác mà
vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung. Quyền sử dụng đất mà vợ,
chồng có được sau khi kết hôn
là tài sản chung của vợ chồng,
trừ trường hợp vợ hoặc chồng
được thừa kế riêng, được
tặng cho riêng hoặc có được
thông qua giao dịch bằng tài sản
riêng. 2. Tài sản chung của vợ chồng
thuộc sở hữu chung hợp nhất, được
dùng để bảo đảm nhu cầu của
gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung
của vợ chồng. 3. Trong trường hợp
không có căn cứ để chứng
minh tài sản mà vợ, chồng đang
có tranh chấp là tài sản riêng
của mỗi bên thì tài sản đó
được coi là tài sản chung (Điều
33).
Từ
những phân tích trên, có thể
hiểu rằng “Tài sản chung vợ
chồng là những tài sản được
hình thành hoặc tạo ra phù hợp
với những căn cứ xác lập tài
sản chung vợ chồng theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình”.
1..2.
Khái niệm giải quyết tranh chấp về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn
Ly
hôn là sự kiện làm chấm dứt
quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ,
đồng thời với sự chấm dứt
quan hệ hôn nhân thì chế độ
tài sản chung của vợ chồng cũng
chấm dứt kể từ thời điểm ly
hôn. Khi ly hôn do có sự mâu thuẫn
về quan hệ tình cảm nên vợ chồng
khó tìm được tiếng nói
chung trong việc phân chia tài sản chung từ
đó dễ xảy ra tranh chấp chia tài
sản chung.
Theo
Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp
được hiểu là sự tranh giành
nhau một cách giằng co cái không rõ
thuộc về bên nào. Tranh chấp về
tài sản vợ chồng thường xảy
ra chủ yếu và gần như đồng
thời cùng với việc ly hôn, điều
này là hợp lý bởi lẽ khi ly
hôn thì vợ chồng đã có sự
sứt mẻ về tình cảm, sự yêu
thương, gắn bó “yêu nhau củ
ấu cũng tròn” trong thời kỳ hôn
nhân không còn nên cùng với
việc ly hôn họ sẽ có sự tranh
giành, hơn thua nhau trong vấn đề phân
chia tài sản. Việc tranh chấp về chia
tài sản chung có thể diễn ra cùng
với việc vợ, chồng xin ly hôn hoặc
có thể diễn ra sau khi vợ chồng đã
ly hôn do thời điểm ly hôn vợ,
chồng không yêu cầu giải quyết về
tài sản chung mà để họ tự
thỏa thuận nhưng sau đó họ không
tự thỏa thuận được. Việc vợ
chồng tranh chấp về tài sản đồng
thời với việc ly hôn hoặc sau khi ly
hôn đều được coi là tranh
chấp về tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn.
Các
tranh chấp về tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn chủ yếu là các
nội dung sau đây:
-
Tranh chấp về việc xác định tài
sản chung hay tài sản riêng, đây
là dạng tranh chấp phổ biến nhất
(vì dụ như tài sản do vợ, chồng
tạo lập được trong thời kỳ
hôn nhân như nhà, đất nhưng
trong giấy tờ mua bán hoặc giấy chứng
nhận quyền sử dụng chỉ đứng
tên vợ hoặc chồng; tài sản là
của bố mẹ vợ hoặc chồng cho vợ
chồng nhưng khi ly hôn thì bố mẹ
lại thay đổi là chỉ cho con trai hoặc
con gái hoặc cha mẹ đòi lại; tài
sản riêng vợ chồng có trước
khi kết hôn nhưng lại đưa vào
sử dụng chung trong thời kỳ hôn nhân).
-
Tranh chấp về việc xác định tài
sản thuộc sở hữu chung của vợ
chồng hay của gia đình (trong trường
hợp vợ chồng sống chung cùng gia đình
mà ly hôn).
-
Tranh chấp về việc phân chia hiện vật.
-
Tranh chấp về việc thỏa thuận giá
trị tài sản tranh chấp.
-
Tranh chấp về việc thực hiện nghĩa
vụ dân sự đối với người
thứ ba.
Khi
vợ chồng tranh chấp về chia tài sản
chung thì họ khó thỏa thuận thống
nhất trong việc phân chia tài sản
chung nên cần có một cơ quan Nhà
nước có đủ thẩm quyền tiến
hành giải quyết việc chia tài sản
chung của vợ chồng. Theo quy định của
pháp luật hiện hành thì việc
giải quyết ly hôn và chia tài sản
chung của vợ chồng thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án. Khi vợ,
chồng có đơn gửi đến Tòa
án yêu cầu giải quyết ly hôn và
cùng với việc giải quyết ly hôn
họ yêu cầu giải quyết về tài
sản thì Tòa án sẽ tiến hành
thụ lý vụ án, thực hiện các
thủ tục, quy trình tố tụng đã
được pháp luật quy định cụ
thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự
như lấy lời khai, thu thập chứng cứ,
hòa giải, định giá, mở phiên
tòa (nếu hòa giải không thành)...Các
bước tố tụng này giúp Tòa
án có thể xem xét, đánh giá
chứng cứ, cân nhắc kỹ, quyết định
về tính hợp pháp, hợp lý trong
lời khai, chứng cứ do các bên đưa
ra. Nếu đủ cơ sở pháp lý
xác định tài sản tranh chấp là
tài sản chung của vợ chồng thì
Tòa án căn cứ vào quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình
hiện hành để giải quyết chia tài
sản chung của vợ chồng.
1.3.
Đặc điểm và ý nghĩa của
việc giải quyết tranh chấp về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải
quyết tranh chấp về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn dựa trên
một cơ chế phân chia đặc biệt.
Về nguyên tắc chung, nếu vợ chồng
không lựa chọn chế độ tài
sản theo thỏa thuận, không có thỏa
thuận khác, việc chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn được
thực hiện trên nguyên tắc chia đôi;
việc tính toán công sức đóng
góp đối với tài sản chung chỉ
mang tính ước lượng tương đối
mà không căn cứ trên cơ sở
số học một cách tuyệt đối
như các trường hợp sở hữu
chung theo phần.
Theo
từ điển luật học “chia
tài sản chung của vợ chồng là
phân chia tài sản chung của vợ chồng
thành từng phần thuộc sở hữu
riêng của vợ và của chồng”.
Sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng
đối với tài sản chung bắt đầu
từ khi quan hệ hôn nhân được
xác lập và được thực hiện
trong suốt thời kỳ hôn nhân. Tùy
thuộc vào việc lựa chọn chế độ
tài sản của vợ chồng theo pháp
định hoặc chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận –
hôn ước mà xác định căn
cứ pháp lý điều chỉnh việc
phân chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn.
Từ
những phân tích trên có thể
thấy: Chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn là
việc xác định phần quyền sở
hữu của vợ, chồng trong khối tài
sản chung của vợ chồng được
chia. Sau khi phân chia tài sản chung, quyền
sở hữu chung hợp nhất của vợ
chồng đối với khối tài sản
chung chấm dứt; vợ, chồng có quyền
sở hữu riêng đối với phần
tài sản đã được chia.
Chia
tài sản khi vợ chồng ly hôn nhằm
tạo điều kiện cho các bên tạo
lập cuộc sống mới sau khi ly hôn, đảm
bảo công bằng giữa vợ và chồng
trong việc tạo lập, duy trì và phát
triển tài sản.
2.
Phương thức và nguyên tắc
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn
2.1.
Phương thức chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn
Ly
hôn sẽ làm chấm dứt chế độ
tài sản chung của vợ chồng. Việc
chia tài sản chung là điều kiện
cần thiết đảm bảo điều kiện
sống của mỗi bên sau khi ly hôn. Ly hôn
là mặt trái của hôn nhân, nhưng
nó không thể thiếu khi hôn nhân
thực sự tan vỡ, vợ chồng không
tìm được tiếng nói chung. Thời
điểm chấm dứt hôn nhân chứa
đựng ý nghĩa pháp luật quan trọng
vì thông qua thời điểm chấm dứt
hôn nhân giúp xác định thời
điểm chấm dứt các quan hệ nhân
thân và quan hệ tài sản, giải
quyết con chung giữa vợ chồng. Về
nguyên tắc, thời điểm chấm dứt
quan hệ hôn nhân cũng là thời
điểm chấm dứt quan hệ tài sản
vợ chồng. Tòa án giải quyết ly
hôn khi giữa hai bên đã tồn tại
một quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Chính vì vậy, trong đề tài này,
tác giả chỉ đề cập đến
việc chia tài sản của vợ chồng
khi ly hôn, tức là giữa các bên
vợ chồng tồn tại quan hệ hôn nhân
được pháp luật thừa nhận.
Để
chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn,
pháp luật Hôn nhân và gia đình
đã quy định về phương thức
phân chia cũng như các nguyên tắc
của việc phân chia này.
Thứ
nhất, phương
thức tự thỏa thuận:
Tại
khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014 đã quy định:
“Vợ chồng
có quyền lựa chọn áp dụng chế
độ tài sản theo luật định
hoặc chế độ tài sản theo thỏa
thuận”.
Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã
bổ sung chế độ tài sản theo thỏa
thuận. Theo quy định tại Điều 47
Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 thì trường hợp vợ chồng lựa
chọn chế độ tài sản theo thỏa
thuận thì thỏa thuận này phải
được lập trước khi kết hôn,
bằng văn bản có công chứng hoặc
chứng thực. Chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận có
hiệu lực kể từ ngày đăng ký
kết hôn. Tại Điều 48 Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014, nội
dung cơ bản của thỏa thuận về chế
độ tài sản của vợ chồng bao
gồm: “Tài
sản được xác định là
tài sản chung, tài sản riêng của
vợ chồng: quyền, nghĩa vụ của vợ
chồng đối với tài sản chung, tài
sản riêng và giao dịch có liên
quan, tài sản để đảm bảo nhu
cầu thiết yếu của gia đình; điều
kiện, thủ tục và nguyên tắc phân
chia tài sản khi chấm dứt chế độ
tài sản…”.
Thỏa thuận này vẫn có thể được
sửa đổi, bổ sung sau khi kết hôn
hoặc bị Tòa án tuyên bố vô
hiệu theo quy định tại Điều 49 và
50 của Luật này. Quy định này
góp phần giảm thiểu sự tranh chấp
tài sản sau ly hôn của các cặp
vợ chồng trong tình trạng hiện nay.
“Trong
trường hợp chế độ tài sản
của vợ chồng theo luật định thì
việc giải quyết tài sản do các
bên thỏa thuận…
Trong
trường hợp chế độ tài sản
của vợ chồng theo thỏa thuận thì
việc giải quyết tài sản khi ly hôn
được áp dụng theo thỏa thuận
đó;…” (Khoản 1 Điều 59 Luật
Hôn nhân và gia đình 2014).
Như
vậy, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 cũng đề cao ý chí của
các bên, quyền tự định đoạt
của vợ chồng. Tuy nhiên, về nguyên
tắc việc tự thỏa thuận này không
được trái với những nguyên
tắc mà pháp luật đã quy định
để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của các bên, nhất là của phụ
nữ và con cũng như tránh sự lợi
dụng những quy định này nhằm mục
đích tư lợi, không lành mạnh
của vợ chồng. Trường hợp các
bên thỏa thuận được về chia
tài sản cùng với việc tự nguyện
ly hôn và việc nuôi dưỡng, chăm
sóc con cái trên cơ sở đảm
bảo quyền lợi của vợ và con thì
Tòa án sẽ ra quyết định công
nhận thuận tình ly hôn theo quy định
tại Điều 55 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2014. Trường hợp các
bên không thỏa thuận được
hoặc có thỏa thuận nhưng không
đảm bảo quyền lợi chính đáng
của vợ và con thì Tòa án sẽ
giải quyết theo quy định của pháp
luật.
Ngoài
ra, quy định thỏa thuận phân chia tài
sản khi ly hôn còn giúp các bên
tiết kiệm được thời gian và
tiền bạc hơn so với yêu cầu Tòa
án giải quyết, giúp cho việc chia tài
sản được tiến hành nhanh chóng,
hiệu quả, tránh được những
tranh chấp và mâu thuẫn. Pháp luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam
không những thừa nhận quyền tự
thỏa thuận phân chia tài sản của
vợ chồng khi ly hôn mà còn khuyến
khích các bên thực hiện theo phương
thức này.
Thứ
hai, phương
thức yêu cầu Tòa án giải quyết
việc chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn:
Nhà
nước và pháp luật luôn luôn
khuyến khích và tôn trọng sự
thỏa thuận của giữa vợ chồng khi
chia tài sản chung. Tuy vậy, không phải
lúc nào vợ chồng cũng thể thỏa
thuận được vấn đề này.
Nhất là khi cuộc sống hôn nhân
tan vỡ, tình yêu không còn, đôi
khi lại ẩn chứa nhiều mâu thuẫn,
xung đột gay gắt khiến cho họ tranh chấp
quyết liệt. Theo quy định tại khoản
1 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014: “…Nếu
không thỏa thuận được thì
theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc
cả hai vợ chồng, Tòa án giải
quyết theo quy định tại khoản 2,3,4,và
5 Điều này và tại các Điều
60,61,62,63, và 64 của Luật này.
…nếu
thỏa thuận không đầy đủ, rõ
ràng thì áp dụng quy định tương
ứng tại các khoản 2,3,4 và 5 Điều
này và tại các Điều 60,61,62,63
và 64 của Luật này để giải
quyết”.
Phương
thức này nhờ Tòa giải quyết khi
các bên lựa chọn chế độ tài
sản theo thỏa thuận nhưng thỏa thuận
không đầy đủ, rõ ràng hoặc
vợ chồng lựa chọn chế độ tài
sản theo luật quy định nhưng không
thỏa thuận được. Khi giải quyết,
Tòa án cũng phải tuân thủ những
nguyên tắc và các trường hợp
cụ thể quy định trong Luật Hôn
nhân và gia đình.
2.2.
Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn
Nếu
vợ chồng lựa chọn chế độ tài
sản chung của vợ chồng theo thỏa thuận
(có thỏa thuận tài sản) thì
khi ly hôn việc phân chia tài sản theo
thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận
không đầy đủ, không rõ ràng
thì áp dụng các quy định tương
ứng của luật định để phân
chia (Điều 59 Luật Hôn nhân và
gia đình 2014).
Trường
hợp, chế độ tài sản của vợ
chồng theo luật định thì việc
giải quyết tài sản sẽ ưu tiên,
căn cứ trên cơ sở thỏa thuận
của các bên. Pháp luật tôn
trọng quyền tự định đoạt tài
sản của vợ chồng và cho phép
vợ chồng tự thỏa thuận phân chia
tài sản chung của vợ chồng. Pháp
luật ghi nhận việc chia tài sản chung
như thế nào trước hết phụ
thuộc vào ý chí của các bên.
Pháp luật cho phép các bên được
tự do ý chí, nhưng việc thỏa
thuận phải được thực hiện
phù hợp với quy định của pháp
luật. Thỏa thuận chia tài sản khi ly
hôn cũng chính là một giao dịch
dân sự, vì vậy nó phải đáp
ứng các điều kiện có hiệu
lực của giao dịch dân sự: Chủ thể
có năng lực pháp luật dân sự,
năng lực hành vi dân sự phù hợp
với giao dịch dân sự được xác
lập; chủ thể tham gia giao dịch dân sự
hoàn toàn tự nguyện; mục đích
và nội dung của giao dịch dân sự
không vi phạm điều cấm của
luật, không trái đạo đức xã
hội; hình thức giao dịch là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự trong trường hợp luật có
quy định (Điều 117, Điều 119 Bộ
luật dân sự 2015). Ngoài ra, do tính
chất đặc trưng của quan hệ hôn
nhân và gia đình nên nó có
một số đặc điểm riêng nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của vợ, con chưa thành niên,
con đã thành niên nhưng mất năng
lực hành vi dân sự hoặc không
có khả năng lao động không có
tài sản riêng để nuôi sống
mình.
Trường
hợp vợ chồng lựa chọn chế định
tài sản theo thỏa thuận thì theo
quy định tại Điều 47 Luật Hôn
nhân và gia đình, thỏa thuận này
phải được lập thành văn bản
trước khi đăng ký kết hôn.
Văn bản này phải được công
chứng hoặc chứng thực. Vì vậy,
nếu vợ chồng lựa chọn chế độ
tài sản theo thỏa thuận; trong thỏa
thuận tài sản có nội dung phân
chia tài sản khi ly hôn. Khi ly hôn, việc
phân chia tài sản thực hiện theo nội
dung thỏa thuận tài sản này.
Nếu
không thỏa thuận được thì
khi có yêu cầu của vợ, chồng
hoặc của cả vợ chồng Tòa án
giải quyết phân chia theo nguyên tắc
sau: Về cơ bản tài sản chung của
vợ chồng được chia đôi nhưng
có tính đến các yếu tố:
Một
là, hoàn cảnh
của gia đình và của vợ, chồng;
Hai
là, công sức
đóng góp của vợ, chồng vào
việc tạo lập, duy trì và phát
triển khối tài sản chung. Lao động
của vợ, chồng trong gia đình được
coi như lao động có thu nhập.
Ba
là, bảo vệ
lợi ích chính đáng của mỗi
bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều
kiện tiếp tục lao động tạo thu
nhập.
Bốn
là, lỗi của
mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ
của vợ chồng;
Năm
là, tài sản
chung của vợ chồng được chia bằng
hiện vật, nếu không chia được
bằng hiện vật thì chia theo giá trị.
Bên nào nhận được phần tài
sản bằng hiện vật có giá trị
lớn hơn phần mình được hưởng
thì phải thanh toán cho bên kia phần
chênh lệch.
Sáu
là, tài sản
riêng của vợ chồng thuộc quyền sở
hữu riêng của người đó trừ
trường hợp tài sản riêng đã
nhập vào tài sản chung theo quy định
của Luật Hôn nhân và gia đình.
Bảy
là, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của
vợ, con chưa thành niên, con đã
thành niên nhưng mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không có khả
năng lao động và không có tài
sản để tự nuôi mình (Điều
59 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014).
Tài
sản có thể là vật chia được,
có thể là vật không chia được.
Vì vậy, luật cũng quy định nguyên
tắc chia tài sản chung của vợ chồng
“Tài sản
chung của vợ chồng được chia bằng
hiện vật, nếu không chia được
bằng hiện vật thì chia theo giá trị;
bên nào nhận phần tài sản bằng
hiện vật có giá trị lớn hơn
phần mình được hưởng thì
phải thanh toán cho bên kia phần chênh
lệch (khoản 3
Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình
2014). Quy định này góp phần hạn
chế đến mức thấp nhất những
hệ quả xấu khi chia tài sản chung của
vợ chồng, việc chia tài sản chung của
vợ chồng có thể chia bằng vật
hoặc theo giá trị, nếu chia bằng vật
thì phải đảm bảo vật phải
sử dụng được sau khi chia.
Trên
thực tế, không phải tài sản nào
cũng có thể chia, chia ra được
các phần đồng đều mà giá
trị sử dụng vẫn được bảo
đảm. Điều này dẫn đến,
có trường hợp không chia được
tài sản bằng hiện vật hoặc chia
tài sản thành các phần nhưng
giá trị của mỗi phần không
bằng nhau. Vì vậy, pháp luật quy
định bên nhận tài sản có
giá trị lớn hơn phải có nghĩa
vụ thanh toán phần chên lệch của
tài sản đó cho bên còn lại
góp phần bảo đảm công bằng
cho các bên. Tuy nhiên, trên thực
tế, việc xác định chính xác
giá trị của một tài sản không
phải đơn giản. Vì vậy, khó
tránh khỏi tranh chấp giữa các bên
khi cho rằng việc định giá giá
trị của tài sản là không thỏa
đáng.
Để
giảm bớt tranh chấp giữa các bên
khi phân chia tài sản chung của vợ
chồng, Tòa án nhân dân tối cao
đã hướng dẫn tại Mục 12 Nghị
quyết số 02/2000/NQ-HĐTP: “việc
xác định giá trị khối tài
sản chung của vợ chồng hoặc phần
giá trị mà họ phải thanh toán,
họ được hưởng là căn cứ
vào giá giao dịch thực tế tại
địa phương vào thời điểm
xét xử”.
Việc quy định này tạo điều
kiện cho đường lối xét xử
của các Tòa án được
thống nhất, qua đó bảo vệ quyền,
lợi ích của các bên một cách
công bằng nhất có thể.
Trên
thực tế, việc xác định được
giá trị của một tài sản theo
giá giao dịch thực tế tại địa
phương vào thời điểm xét xử
không phải lúc nào cũng dễ dàng.
Thứ
nhất, không
phải tài sản nào, tại địa
phương nào cũng thường xuyên
có sự giao dịch. Các tài sản
tuy cùng loại nhưng giá trị giao dịch
lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
khấu hao tài sản, địa điểm
của tài sản (đối với bất
động sản)…mà giá giao dịch
trên thực tế cũng rất phức tạp.
Đây là các yếu tố ảnh
hưởng đến việc xác định
giá trị tài sản chung của vợ
chồng cần phải phân chia khi Tòa án
tiến hành định giá.
Thứ
hai, nếu một
bên nhận được hiện vật có
giá trị có lớn hơn, phải thanh
toán phần chênh lệch cho bên còn
lại nhưng họ cố tình không thanh
toán hoặc không có khả năng
thanh toán thì bên nhận phần tài
sản có giá trị thấp hơn hoặc
không nhận được tài sản sẽ
bị thiệt thòi trên thực tế. Điều
này dẫn đến tranh chấp, mẫu thuẫn
kéo dài.
Luật
Hôn nhân và gia đình 2014 quy định
nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng tại Điều 37. Đây là
quy định mới của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014. Trước đây,
luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 chỉ đề cập đến vấn đề
thanh toán nghĩa vụ tài sản chung của
vợ chồng “Việc
thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản
của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa
thuận; nếu không thỏa thuận được
thì yêu cầu Tòa án giải
quyết” (khoản
3 Điều 95 Luật Hôn nhân và gia
đình 2000).
Tại
khoản 1 Điều 60 Luật Hôn nhân và
gia đình 2014 quy định: “Quyền,
nghĩa vụ tài sản của vợ chồng
đối với người thứ ba vẫn có
hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường
hợp vợ chồng và người thứ
ba có thỏa thuận khác”.
Quy định này góp phần làm cho
luật chuyên ngành phù hợp với
quy định của luật chung – Bộ luật
Dân sự.
Nếu
chỉ căn cứ vào thỏa thuận của
hai vợ chồng, người về nghĩa vụ
tài sản chung của vợ chồng, nhưng
người có quyền tương ứng
- người thứ ba không đồng ý
với thỏa thuận đó thì dẫn
đến mâu thuẫn với quy định
tại Bộ luật dân sự năm 2015 về
thực hiện nghĩa vụ dân sự liên
đới. Người có quyền có thể
yêu cầu bất cứ ai trong số những
người có nghĩa vụ phải thực
hiện toàn bộ nghĩa vụ. Nếu vợ
chồng thỏa thuận cho bên thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ mà không có
sự đồng ý của bên thứ ba –
bên có quyền thì thỏa thuận này
có thể ảnh hưởng đến quyền
của bên thứ ba.